TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)

TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)
TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)

Thursday, 19 February 2015

XUÂN BÌNH AN & ĐẦU XUÂN ĐI CHÙA ĐÚNG CHÁNH PHÁP



Tôi mong tất cả Tăng Ni là người lãnh đạo Phật tử, quí vị đi và dẫn dắt Phật tử cùng đi đúng theo con đường đức Phật đã đi.
Đừng đi sai, đừng đi lệch, uổng một đời tu, không biết mai kia có gặp lại Phật pháp không?
Làm sao chúng ta đứng vững và luôn luôn không bị những luồng gió nhơ nhớp của thế gian
làm lem luốc,
phải trong sạch vững vàng trên con đường đạo. Đó là chỗ tha thiết mong mỏi của tôi.
HT Thích Thanh Từ
lllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll

TẾT ẤT MÙI 2015

 
VP. PHAT-HOC TINH-QUANG CANADA
Kính mời viếng thăm 
DÂNG SỚ CẦU AN - TIỀN MẤT TẬT MANG
CÚNG SAO GIẢI HẠN - TAI NẠN VẪN TỚI
lllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll
 

Tôi mong tất cả Tăng Ni là người lãnh đạo Phật tử, quí vị đi và dẫn dắt Phật tử cùng đi đúng theo con đường đức Phật đã đi.
Đừng đi sai, đừng đi lệch, uổng một đời tu, không biết mai kia có gặp lại Phật pháp không?
Làm sao chúng ta đứng vững và luôn luôn không bị những luồng gió nhơ nhớp của thế gian
làm lem luốc,
phải trong sạch vững vàng trên con đường đạo. Đó là chỗ tha thiết mong mỏi của tôi.
HT Thích Thanh Từ
lllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll

Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ
Theo thông lệ xưa, cứ vào dịp Tết, Nguyên Đán hằng năm, nhiều người Phật Tử, cũng như mọi người, không phải Phật Tử, thường hay đi chùa, lễ Phật đầu năm, hái lộc đầu xuân, thắp hương khấn vái, cầu nguyện chư Phật, chư vị Bồ Tát, tổ tiên ông bà, phù hộ độ trì, năm mới trọn lành, bình yên vô sự, tai qua nạn khỏi, vạn sự kiết tường, muôn sự hanh thông, mọi việc như ý. 
Đó là truyền thống, tín ngưỡng lâu đời, chúng ta giữ gìn, từ thế hệ này, sang thế hệ khác, từ ở trong nước, ra đến hải ngoại. Bất cứ nơi nào, người Việt sinh sống, trước hay là sau, sớm hay là muộn, cũng có cảnh chùa, cũng có tu viện.

Phật đường Thiền đường, tịnh thất thiền thất, đạo tràng tu học, dựng lên phát triển, công sức bá tánh, tịnh tâm tịnh tài, để cho mọi người, có nơi lễ Phật, có nơi tạo phước, có nơi tưởng niệm, tổ tiên ông bà, phát huy văn hóa, có nơi tĩnh tâm, sau những tháng ngày, đấu tranh tranh đấu, kiếm sống vất vã.
Trong suốt cuộc đời, đầy dẫy khó khăn, những sự bất trắc, việc bất như ý, căng thẳng muộn phiền, hệ lụy trầm kha, mất mát vật chất, cũng như tinh thần, thăng trầm sóng gió, quan trọng nhứt là: có nơi tu học, thực hành Chánh Pháp, để đạt mục đích, giác ngộ giải thoát, dứt trừ những chuyện, phiền não khổ đau, thoát ly sanh tử, luân hồi nhiều kiếp. Tuy nhiên nên biết, con người đạt được, cuộc đời bình an, như lời cầu nguyện, hay không đạt được, chuyện đó không tùy, các đấng thiêng liêng, các vị thần linh, ngọc hoàng thượng đế, bất cứ vị nào. Tại sao như vậy? 

Bởi vì sự thực, thánh thần thiên địa, các vị thiêng liêng, nếu là các bậc, chí công vô tư, bất tùy phân biệt, không bao giờ làm, các chuyện bất công, thiên vị kỳ thị, ban cho con người, những điều van xin, cầu nguyện khấn vái, dù là thành khẩn, đến mức độ nào, nếu như người đó, không đáng được nhận, chẳng đáng được hưởng, mà lại không ban, cho bao người khác, xứng đáng hơn nhiều! Thực ra cần biết, tất cả những chuyện, vui buồn sướng khổ, hỷ nộ ái ố, những bước thăng trầm, của cuộc đời này, đều tùy thuộc vào, nghiệp duyên mỗi người, đều tùy thuộc vào, phước báu mỗi người, tạo được từ trước, cho đến giờ này.

Chẳng hạn như là: người nhiều phước báu, cuộc đời của họ, gặp nhiều may mắn, gặp đủ thuận duyên, tai qua nạn khỏi, chuyện lớn hóa nhỏ, chuyện nhỏ hóa không, thường gặp người hiền, thiện hữu tri thức, cầu gì cũng được, ít sóng gió hơn, ít phiền não hơn, ít cay đắng hơn, ít ưu tư hơn, ít khổ sở hơn, ít gặp người xấu, ít gặp hiểm nghèo, dù họ đang sống, bất cứ cảnh nào, bất cứ nơi nào, cũng vậy mà thôi.

Trái lại trên đời, những người kém phước, thường gặp xui xẻo, gặp sự hiểm nghèo, thiên tai địa tai, thủy tai hỏa tai, gặp người bất thiện, tổn hữu ác đảng, sa vào nghịch cảnh, sóng gió thường xuyên, khổ sở triền miên, cầu gì chẳng được, làm gì chẳng nên, gia đạo ly tan, tán gia bại sản, người thân gặp nạn, tai họa liên miên. 

Những người ít phước, lao đao lận đận, khốn khổ như vậy, bởi vì không biết, tu nhân tích đức, không chịu chăm lo, tu tâm dưỡng tánh, dù người tuổi già, hay là tuổi trẻ, lại còn tiếp tục, tạo tội tạo nghiệp, tranh chấp hơn thua, mua gian bán lận, bận tâm suy nghĩ, những chuyện vu khống, đặt điều cáo gian, khiến người lầm than, thất điên bát đảo, hại người lương thiện, đòi tiền bồi thường, vài ba triệu bạc, giựt hụi quịt nợ, làm ăn bất chánh, lường người gạt bạn, xúi giục mẹ cha, thưa kiện người ta, tán gia bại sản, thân bại danh liệt, sống dở chết dở, thiệt là tội nghiệp!
 


Bởi vậy cho nên, nhân dịp năm hết, tết đến hằng năm, chúng ta cùng nhau, xét lại cái chuyện, đi chùa đầu năm, hay vào dịp khác, làm sao thực hiện, cho đúng chánh pháp, làm sao cho được, ích lợi thực tế, có thể giúp đỡ, cuộc đời hiện tại, tất cả chúng ta, chuyển hóa tốt đẹp, được may mắn hơn, được an lạc hơn, được hạnh phúc hơn, gặp được thiện nhơn, chỉ đường dẫn lối.

Tìm thấy chánh đạo, biết cách tu tập, theo đúng chánh pháp, tu tâm dưỡng tánh, tránh cảnh chen lấn, giành giựt hái lộc, đi chùa đầu năm, giựt cho bằng được, trái cam trái quít, cành hoa nén hương, để đem về nhà, gọi là lấy hên, đồng thời tránh được, thất vọng não nề, ngay khi nhận ra, những người đi chùa, cũng không khác gì, những người ngoài đời, nhiều khi tệ hại, và nguy hiểm hơn, cũng như tránh được, thất vọng nãn lòng, khi lời cầu nguyện, không được đáp ứng, linh nghiệm như ý, và tránh được cảnh, mê tín dị đoan, tiền mất tật mang, bởi vì tin tưởng, ông bà thầy bói, nói bậy nói bạ, phong thủy địa lý, hý ngôn đủ thứ, tự nhận bừa bải, linh nghiệm như thần, trúng trăm phần trăm, vân vân và vân vân. 
Trước hết cần biết, quan niệm đi chùa, không đúng Chánh Pháp, là như thế nào, nhưng có rất nhiều, Phật Tử cũng như, không phải Phật Tử, hằng năm hằng tháng, vẫn cứ đi chùa, theo như cách đó. Theo như tín ngưỡng, ở trong dân gian, người ta đi chùa, van xin khấn vái, xin xăm xin keo, xem bói xem tướng, xem ngày tốt xấu, quan hôn tang tế, cầu cơ điểm nhãn, lên đồng lên cốt, đốt hình nhân giấy, đốt giấy vàng bạc, đô la mỹ kim, xe hơi nhà lầu, cầu khẩn thần linh, thỉnh bùa buôn bán, tình duyên gia đạo, thỉnh tượng thần tài, dâng sớ cầu an, cúng sao giải hạn. Những việc làm này, không thuộc phạm vi, Phật giáo thuần túy, nhưng đã từ lâu, trộn lẫn vào trong, sinh hoạt chùa chiền, tạo nhiều ưu phiền, tạo nhiều nghi kỵ , xa rời Chánh Pháp, lạc sang tà đạo, cần phải chỉnh đốn. 

Trong suốt cuộc đời, năm nào cũng vậy, chúng ta cũng gặp, những chuyện may mắn, vừa ý vui vẻ, cùng với những chuyện, kém may không tốt, khó chịu buồn phiền! Ngay cả cuộc đời, các bậc thánh nhân, các vị giáo chủ, trên thế gian này, cũng không ngoại lệ, có người tán tụng, tung hô khen ngợi, bái phục qui ngưỡng, đồng thời cũng không, tránh khỏi rắc rối, phỉ báng mạ lỵ , vu khống cáo gian. Thậm chí có vị, bị bắt bỏ tù, hay bị xử chết, một cách thê thảm! Tại sao như vậy? Bởi vì thực ra, đã là người ta, dù là thánh nhân, bậc đại tu hành, hay đã đắc đạo, tất cả đều không, ra ngoài nhân quả.

Nói một cách khác, tất cả mọi người, gây tạo nghiệp nhân, do thân khẩu ý, tốt có xấu có, thiện có ác có, lành có dử có, hiền có hung có, trong vô lượng kiếp, hay trong kiếp này, nếu biết ăn năn, sám hối phát nguyện, tu tâm dưỡng tánh, giác ngộ chánh đạo, giải thoát luân hồi. Tuy nhiên vẫn phải, cam lòng đền trả, nghiệp quả đã gieo, mình làm mình chịu, thế mới công bằng, chí công vô tư, bất tùy phân biệt, chứ đừng lập đàn, cầu được bình an, bằng cách vái van, van xin cầu khẩn, uổng công vô ích, đó là quịt nợ! Khi nào nghiệp quả, còn gọi nghiệp báo, hay là quả báo, đến ngày phải trả, dù là thánh nhân, dù là giáo chủ, giáo phẩm chức sắc, quyền cao chức trọng, giàu sang danh vọng, chí đến thứ dân, bần cùng cố nông, cũng không tránh khỏi!

Trong Kinh A Hàm, Đức Phật có dạy:
Dù trốn lên non,
xuống biển vào hang,
nghiệp báo đã mang,
không ai tránh được.

Người trên thế gian, thường hay nói rằng: "hễ trời kêu ai, thì người ấy dạ!", hoặc là có câu: "lưới trời tuy thưa, mà chưa ai lọt", chính là nghĩa đó. 
Những chuyện vào chùa, cúng chút tiền lẻ, hoặc một nén hương, hay một nãi chuối, một ít trái cây, một chút chè xôi, ôi thôi khấn vái, xin xỏ đủ điều, nhiều khi hái lộc, tay lắc ống xăm, mong được quẻ tốt, tình duyên gia đạo, thảy đều cát tường, thường muốn quẻ thượng, cầu khẩn van xin, khấn vái thần linh, cầu cho trúng số, cầu cho thắng kiện, cầu cho hơn người, đấu tranh thắng lợi, cửu huyền thất tổ, đều được siêu thăng, nội ngoại hai bên, ông bà cha mẹ, con cháu trong nhà, bình yên vô sự, sung sướng tấm thân, sức khỏe dồi dào, tai qua nạn khỏi, thi đâu đậu đó, được làm quan to, giàu sang phú quí. Đem tượng thần tài, vào chùa điểm nhãn, cho được linh hiển, phù hộ làm ăn, buôn may bán đắt, một vốn bốn lời, nhứt bổn vạn lợi, là những việc làm, biểu tượng tâm tham, vô bờ vô bến, thỏa mãn tâm sân, như hỏa diệm sơn, tràn ngập tâm si, vô minh muôn thuở! Tham sân si là, cội nguồn sanh tử, cần phải dứt trừ, chính nghĩa đó vậy.
Bởi vậy cho nên, trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy:

Hãy tự thắp đuốc,
Sáng lên mà đi.
Thắp với Chánh Pháp,
Khai mở Trí Tuệ.

Nghĩa là Phật dạy: để dẹp trừ dứt, sinh hoạt mê tín, hiện tượng dị đoan, không đúng Chánh Pháp, Phật Tử chân chánh, thành tâm phát nguyện, tu tâm dưỡng tánh, cầu mong giác ngộ, chánh đạo giải thoát, sanh tử luân hồi, đều cần học hiểu, thực hành Chánh Pháp, ngay trong đời sống, ngay tại thế gian, tất cả mọi người, có thể làm được. Chánh Pháp tại thế gian, không phải do trời ban, chính mình phải cầu học, để có thể áp dụng, trong đời sống hằng ngày, chứ không phải là, những pho kinh điển, để thờ để lạy, không học hiểu được. Đức Phật thị hiện, thế giới ta bà, giảng kinh thuyết pháp, giúp đỡ chúng sanh, thoát ly sanh tử, phiền não khổ đau. Tại sao chúng ta, lại không tìm học, để đặng áp dụng, vào trong cuộc sống?

Ở trong kinh sách, chư Tổ có dạy:
Tu mà không học,
đúng là tu mù.
Học mà không tu,
chỉ là tủ sách.

HAY

Muốn tu thì phải học
Muốn đọc phải biết chữ 

Người không phát nguyện, tu tâm dưỡng tánh, dĩ nhiên gặp nhiều, phiền não khổ đau, mỗi khi nghịch cảnh, xảy đến thình lình. Người đã phát tâm, tu mà không học, không hiểu Chánh Pháp, chỉ thực hành suông, những điều truyền miệng, người trước làm sao, người sau làm vậy, làm sao tránh được, những điều mê tín, những chuyện dị đoan, tam sao thất bổn, xa rời Chánh Pháp, gọi là tu mù. 

Tam tạng kinh điển, là do chư Phật, chư vị Tổ sư, truyền lại nhiều đời, há chẳng ích lợi, gì cả hay sao? Nếu cứ đọc tụng, mà vẫn không hiểu, có thể tìm kiếm, các vị chân tu, các bậc tôn đức, thực học giáo lý, để xin nương tựa, để xin chỉ dạy. Làm được như vậy, chúng ta tránh khỏi, những kẻ ngoại nhân, lợi dụng hình tướng, tu sĩ Phật giáo, lẫn lộn vàng thau, hướng dẫn những điều, huyễn hoặc huyền bí, mê tín dị đoan, xa lìa chánh đạo, chẳng ích lợi gì! Những người thu thập, tam tạng kinh điển, nghiên cứu từ chương, tìm phương phô trương, sở học tri kiến, cũng chẳng ích lợi, cho việc thoát ly, sanh tử luân hồi, giác ngộ giải thoát, chỉ là tủ sách, hay là đãy sách!

Chúng ta không nên, quan niệm sai lầm, xem chùa như là, cái viện dưỡng lão, dành riêng cho người, gần đất xa trời, hay là dành cho, những người chán đời, thất bại trên đường, công danh sự nghiệp, hoặc là dành cho, những người chán chê, tình duyên gia đạo, ở ngoài thế gian. 

Bởi vậy cho nên, những người phát tâm, thay đổi hình tướng, vào tu trong chùa, bất cứ tuổi nào, cần nên phát nguyện, ly thân cắt ái, dứt bỏ hồng trần, lìa tam giới gia, xuất phiền não gia, tự độ độ tha, tự giác giác tha, giác hạnh viên mãn, cầu học Chánh Pháp, tu tập tinh tấn, đến ngày giác ngộ, thấu rõ biết rành, cốt tủy đạo Phật, chứ đừng giải đãi, tụng kinh ê a, lóc cóc leng cheng, như phường hát dạo.
Chuyên chú hình thức, cúng kiến lễ lạy, cúng sao giải hạn, quanh năm suốt tháng, cầu này cầu kia, vía ông vía bà, thực là uổng phí, cả cuộc đời này, lại còn dẫn dắt, bao người lầm lạc, vì tin màu áo, sa vào tà đạo, xa rời chánh đạo, biết đến bao giờ, quày đầu tỉnh ngộ? 

Trong Kinh A Hàm, Đức Phật có dạy: 
"Không nên tin ngay, tất cả những gì, người xưa đã nói, tất cả những gì, người có thế lực, đạo cũng như đời, tất cả những gì, người bề trên nói, tất cả những gì, nhiều người tin theo, có ghi trong sách.  
Chỉ nên tin theo, những gì có thể, kiểm nghiệm lại được, đúng với chân lý, đúng với lẽ thực, thông qua trí tuệ, sáng suốt thông minh, thấy có ích lợi, cho bản thân mình, và cho mọi người".

Để tránh sai lầm, cho chính chúng ta, không tin mù quáng, bất cứ lời nào, do những người có, thế lực ngoài đời, cũng như thế lực, trong các tổ chức, tôn giáo thế gian, chúng ta nhứt định, phải biết suy xét, tư duy nghiền ngẫm, đối chiếu so sánh, với tam tạng kinh, tạng luật và luận. Hơn như thế nữa, ở trong Phật giáo, có "Tam Tuệ Học", tức ba môn học, giúp đỡ con người, phát sanh trí tuệ, thông minh sáng suốt, phân biệt chánh đạo, khác với tà đạo, có được chánh kiến, và có chánh tín, tránh được mê tín, và tránh dị đoan. Ba môn học đó, là: "Văn, Tư, Tu".

Trước hết chúng ta, cần phải lắng nghe, lời giảng thiết tha, của thiện tri thức, phải học kinh điển, và những lời dạy, của chư tôn đức. Xong rồi, chúng ta phải biết, tư duy quán chiếu, suy nghĩ nghiền ngẫm, một cách kỹ lưỡng, một cách tường tận, một cách thấu triệt. Khi nào nhận thấy, những lời dạy đó, quả thực đem lại, an lạc cho mình, ích lợi cho người, chúng ta bắt đầu, tu tập thực hành, vào trong đời sống, hằng ngày hằng giờ, của chính chúng ta. 
Chẳng hạn như là: những lời tiên tri, về ngày tận thế, đã từng làm cho, bao nhiêu con người, nhẹ dạ dễ tin, nơi đấng thần quyền, phải chịu điêu đứng, tự sát tập thể, trước năm 2000, biến động vừa qua. Chẳng hạn như là: những chuyện phép lạ, chữa người tê liệt, đi đứng lại được, chữa cho người mù, thấy được ánh sáng, đều là những chuyện, không tưởng hoang đường, chẳng ích lợi gì, cho việc phát nguyện, tu tâm dưỡng tánh, chỉ đem lợi nhuận, thực là kếch xù, cho người lợi dụng, đức tin mù quáng, của mọi người khác. 

Tại sao như vậy? Bởi vì nếu như, có vị thánh nhân, cứu cho người chết, sống trở lại được, thử hỏi sau này, nếu như người đó, lại chết lần nữa, ai cứu họ đây? Lần này chết thiệt! Không sống lại đâu! Tại sao như vậy? Bởi vì cái vị, gọi là thánh nhân, đã phải lìa trần, bị người khác giết, chết mất đất rồi, ai mà cứu nổi! Khi Phật tại thế, có một thiếu phụ, khẩn cầu Đức Phật, cứu sống người con, mới vừa qua đời. Đức Phật bèn bảo, người thiếu phụ đó, đi xin đem về, cho được hột cải, từ gia đình nào, không bao giờ có, người đã qua đời. Dĩ nhiên kết quả, người thiếu phụ đó, không sao tìm được, hột cải như vậy. Bởi vậy cho nên, người thiếu phụ đó, liền giác ngộ được, "lý lẽ vô thường", của cuộc đời này.
 
Không có cái gì, ở trên đời này, tồn tại vĩnh viễn, không có người nào, trẻ mãi không già, sống mãi không chết, dù cho người đó, là bất cứ ai, giàu sang nghèo hèn, thông minh ngu dốt, quan chức thường dân, tu sĩ tín đồ, da đen da trắng, da vàng da đỏ, khỏe mạnh đau yếu, tất cả cũng đều, có ngày bắt buộc, từ giã cuộc đời, hai bàn tay trắng, chỉ đem theo được, cả khối nghiệp báo, đã gây tạo nên, trong suốt cuộc đời, sống trong vô minh, không biết chánh đạo.

Tóm lại chúng ta, khi gặp thuận cảnh, nhiều sự may mắn, cuộc đời an vui, chúng ta nên biết, mình đang hưởng phước, tiếp tục cố gắng, tu tâm dưỡng tánh, tạo thêm phước báu, tránh xa các việc, tạo tội tạo nghiệp, dù trong hành động, dù trong lời nói, hay trong ý nghĩ.  Khi gặp nghịch cảnh, khốn khổ khó khăn, cuộc đời sóng gió, chúng ta biết ngay, mình kém phước báo, phải trả nghiệp báo, không thể tránh khỏi, không thể cầu an, bằng cách vái van, xin xăm bói quẻ, cho nên quyết chí, tu tâm dưỡng tánh, giúp đời giúp người, làm việc phước thiện, nhứt định chuyển nghiệp, chuyển hóa tâm tánh, tu theo chánh đạo, từ bi hỷ xả, bình tĩnh thản nhiên, trước mọi sóng gió, của cuộc đời này.

Chúng ta quyết tâm, từ đây trở đi, đầu năm đi chùa, chánh tín lễ Phật , mỗi năm một lần, hay thường xuyên hơn, mỗi tháng mỗi tuần, đều với mục đích: cầu học Chánh Pháp, gần gũi bạn đạo, thảo luận pháp tu, thọ bát quan trai, hành thập thiện giới, trao đổi kinh nghiệm, đọc kinh đọc sách, thỉnh băng thuyết pháp, đem về tu học. Tinh tấn thường xuyên, nội cần khắc niệm, tạo được công phu, ngoại hoằng bất tranh, tạo nên đức độ, bên trong tĩnh lặng, bên ngoài an vui, cho đến một ngày, giác ngộ chân lý, giải thoát phiền não, chẳng thấy khổ đau, mặc dù vẫn sống, ngay tại thế gian, như bao người khác, thân tâm tự tại, an lạc hạnh phúc, cư trần lạc đạo.
Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ

 llllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll

CÚNG SAO GIẢI HẠN



XUÂN BÌNH YÊN
TKN THÍCH NỮ CHÂN LIỄU

Trong thời tiết của năm mới, trên mảnh đất an bình hiền hòa Gia Nã Đại, khi nhắc đến Tết Việt nơi xứ người thì không khí lạnh cũng trở thành niềm vui và ấm áp. Hạnh phúc đến với những điều mới mẻ, cuộc sống tiến bộ lạc quan, tâm hồn người con Phật thì luôn cầu mong thế giới thanh bình thịnh vượng. Một ngày đi qua, một tháng cũ hết, một năm lặng lẽ trôi, một đời người, một con đường, một chân lý sống, suy tư cho cùng tận sự vô thường biến đổi ngay trước mắt. Đời người không là mãi mãi sống trăm năm, không một ai thoát khỏi luật vô thường. Cần thấy rõ được niềm hạnh phúc những vinh quang hiện tại; hoặc thăng trầm, vinh nhục ở trong quá khứ; hay sự bất hạnh thất bại bất như ý sẽ xảy ra ở tương lai. Tất cả đều là vô thường. Chỉ có giác ngộ tìm cho được sự thường không bao giờ thay đổi, khi đó con người không còn sợ bị vô thường chi phối nữa.

Phật pháp không là của riêng ai, những điều chân chánh đã có sẵn trong chốn dân gian. Nhân quả và vô thường là sự thật trong vũ trụ. Khi con người còn tham lam danh vọng, sân hận chất chứa, si mê điều lợi, bất chấp thủ đoạn, hại người lợi mình, thì không có trí tuệ. Khi không hiểu được giá trị của Phật Pháp, không áp dụng nhân cách đáng trân trọng và tâm từ bi trong cuộc sống, thì chiến tranh xảy ra, hơn thua tranh danh đoạt lợi, đau khổ ly tán. Sự vô cảm và tàn bạo khiến con người càng lúc càng xa rời đạo đức.  

Nhân quả và vô thường làm cho chúng sanh rơi vào vòng xoáy của luân hồi sanh tử, nhiều kiếp chịu đau khổ trong lục đạo: thiên, nhơn, atula, địa ngục, ngạ quỉ và súc sanh. Phật là bậc Thầy khai ngộ và chỉ dạy cho chúng sanh thức tỉnh, dùng trí tuệ để nhận biết rõ ràng ai ai cũng có Phật tánh bình đẳng và sáng suốt. Ai cũng có thể qui y Phật để trở về con đường chân chánh và thanh tịnh. Trong Kinh Nhật Tụng Chư Tổ dạy rằng:

Phật chúng sanh tánh thường rỗng lặng
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn
Lưới đế châu ví đạo tràng
Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời
Trước bảo tọa thân con ảnh hiện
Cúi đầu xin thệ nguyện qui y

Phật chúng sanh tánh thường rỗng lặng. Bản tánh rỗng lặng như nhau có nguồn gốc từ quá khứ sâu xa, là chốn an bình tịch lạc, không có tranh chấp, không có đau khổ. Phật là từ chúng sanh giác ngộ mà chứng quả. Phật cũng từ phiền não mà chứng bồ đề.

Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn. Sự suy tư của tâm thanh tịnh không thể nghĩ bàn. Đạo là con đường mà hành giả chân chánh không bị danh lợi cám dỗ, trạng thái tâm lặng lẽ không dính mắc, không chống trái với nhau. Nhân cách của các vị thiện hữu tri thức cảm thông nhau, cho dù thuận hạnh nghịch hạnh vẫn có thể hoằng pháp ở mọi hoàn cảnh, mà không đánh mất giá trị của đạo hạnh. Đây là việc bất khả tư nghì của những bậc bồ tát có đủ từ bi và trí tuệ.

Lưới đế châu ví đạo tràng. Ngài Thần Tú ví tâm như gương lấm bụi phải lau chùi hằng ngày, Ngài Huệ Năng ví tâm xưa nay không phải là một vật, nên chẳng có gì phải lau chùi. Trong đời sống tùy quan niệm và hoàn cảnh, người tu đừng chấp, đừng phân biệt giai cấp, hay đòi hỏi nhiều, thì ở đâu cũng là đạo tràng. Lời dạy của chư Phật chư tổ cũng là phương tiện để tu học, pháp môn nào cũng là kiến thức từ bên ngoài cần cho việc tu học mà thôi, đừng rơi vào sự sai lầm của bản ngã, gây chướng ngại cho con đường giải thoát. Quan trọng nhất là chánh kiến và chánh tín, tránh khỏi mê lầm, tìm được chân lý thật sự đưa con người đến hạnh phúc, đó mới là cứu cánh và vô cùng trân quí hơn cả trân châu bảo ngọc.

Mười phương chư Phật hào quang sáng ngời. Phước đức giúp người tu dễ vượt qua khó khăn của ma chướng, như người khách bộ hành phải đi qua những đoạn đường gian nan đầy vực sâu và thử thách. Khi có được những gì mong cầu, người tu đi đến đâu làm việc gì cũng chỉ nghĩ lợi ích chúng sanh. Tánh giác có sẳn nhưng vì nghiệp thiện ác ở sáu cõi làm cho chúng ta quên đường về. Từ vô thủy chúng sanh đã là Phật, tự tánh vốn thanh tịnh luôn luôn hiện hữu. Khi ánh sáng trí tuệ như ngọn đèn được thắp sáng, bóng tối vô minh từ bao đời kiếp tự tan biến mất. Hiểu được và hành được Phật Pháp bằng thân giáo và khẩu giáo là công đức phước đức, lợi lạc cho mình và cho những người hữu duyên, thì hào quang cũng không khác gì chư Phật mười phương.

Trước bảo tọa thân con ảnh hiện. Công phu “phản quan tự kỷ” chánh niệm tỉnh giác, chiếu kiến từng hành động thuộc về thân khẩu ý. Đức Phật ví tâm con người như mặt biển và ngọn sóng, khi sóng yên biển lặng thì thấy được sóng và nước là một. Sóng lặng là định, là tuệ, là an bình. Sóng dậy là loạn, là mê, là phiền não. Mặt biển lúc nổi sóng và mặt biển lúc thanh bình, tuy trạng thái hoàn toàn khác nhau, nhưng không phải là hai biển. Cũng vậy, tâm con người lúc bình tĩnh thản nhiên và lúc nổi cơn tức giận, không hai, nhưng cũng không phải một. Tuy hai mà một, tuy một mà hai, chính là nghĩa đó vậy. Trước tình thương bao la bình đẳng của Phật tâm, con người rồi sẽ nhận ra thật tướng của cái ta, tốt xấu như thế nào. Chư Tổ các ngài giúp môn đệ nắm vững đường lối tu hành và định hướng cho biết Phật tại tâm, tâm là Phật. Phật và chúng sanh chỉ là ngôn từ để xử dụng, chứng đắc, hay ngộ nghĩa lý là do ở nơi mỗi người.

Cuối đầu xin thệ nguyện qui y. Khi người tu đạt được trạng thái vắng lặng thấy được lẽ thật, bừng tỉnh, giác ngộ sinh tử, mong muốn quay về với chốn an bình tịnh lạc đó mới thật sự là “qui y”. Nhưng đâu là ranh giới của đau khổ và hạnh phúc, si mê và giác ngộ. Tu nghĩa là “dừng”, không mang mặc cảm phước mỏng nghiệp dày, không tự mãn với những gì có được, mới thấy đời tu có ý nghĩa và an lạc. Khi liễu ngộ là đã nhận biết được đường hướng và mục đích cuối cùng một cách rõ ràng, hãy vững niềm tin mà tiến bước bằng nghị lực và ý chí không thối chuyển.

Các Thiền sư có câu: “Thủy lưu qui đại hải. Nguyệt lạc bất ly thiên”. Nước dù chảy đi đâu, cuối cùng cũng về biển cả. Trăng lặn ở đâu, cũng không ra khỏi bầu trời. Xuân đi xuân đến, mãi mãi vẫn là xuân. Mùa xuân bình yên với người tu đạt từ bi và trí tuệ. []

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
TKN Thích Nữ Chân Liễu

 XUÂN TRONG NÉT ĐẸP NGƯỜI TU (Giọng đọc SƯƠNG ANH)

HỐI LỘ THẦN THÁNH

- Chúng ta có đua nhau "hối lộ" thần thánh ?
- Hiện nay việc dâng, đưa tiền lẻ khắp mọi nơi, đốt vàng mã tràn lan, hoang phí trong chùa với mục đích và suy nghĩ  thực dụng rằng cúng, dâng càng nhiều tiền sẽ được hưởng càng nhiều lộc là hành động “Hối lộ thánh thần”, hiểu sai hoàn toàn tinh thần của Phật Giáo
- Khi đến chùa, thắp hương như thế nào là đúng, thưa ông?
- Đến chùa có 3 nơi chính cần thắp hương đó là Ban Đức Ông, Ban Tam Bảo và Ban Đức Thánh Tăng. Ban Tam Bảo là nơi Đức Phật ngự, như một vị giáo chủ. Ban Đức Thánh Tăng là các vị tăng lữ, có thể tạm hiểu là những người trung gian kết nối giữa chúng ta với Đức Phật như một vị trợ giáo, ví dụ như Đường Tăng Tạng, Quan Âm Thị Kính như ở một số nơi thờ. Bàn thờ Hộ Pháp tượng trưng từ truyền thuyết trong Phật Giáo liên quan đến nhân vật được cho là người trông coi cai quản vùng đất nơi chùa.

Mỗi bàn chỉ nên thắp một nén hương, mỗi nén hương được gọi là Tâm hương.  Chỉ thắp 3 nén hương chỉ khi đến chùa trước khi có sự thay đổi lớn trong cuộc đời.
- Tại sao chỉ nên thắp một nén hương mỗi ban và gọi là Tâm hương?
- Bởi một nén hay nhiều nén thì ý nghĩa của việc thắp hương cũng hội tụ trong 5 yếu tố của của một Tâm hương đó là: Giới hương, Định hương, Tuệ hương, Giải thoát hương và Giải thoát tri kiến hương.




Tình trạng thắp một lúc nhiều nén hương và thắp bắt kì nơi đâu diễn ra phổ biến ở nhiều nơi trong chùa (Ảnh: Báo Thanh Niên)

Giới hương là khi cầm nén hương lên phải giữ được giới luật cho trong sạch. Giới pháp của nhà Phật, cũng như luật tục trần thế. Không thể đến với Phật mà mang tâm của một người bất chính, phá hoại giới luật ( bao gồm phật luật cũng như thế luật ). 

Định hương là giữ cho cái tâm ấy trong sạch, các đam mê trần tục, bạc tiền, danh vọng vọng phải bị loại ra khỏi đầu óc, tâm thanh tịnh là định hương.

Tuệ hương là phải giữ cho tinh thần minh mẫn, sáng suốt. Vì trong phật giáo có câu: “Tâm không tĩnh thì tuệ không thông, mà tuệ không thông tức là vô minh, là ngu dốt, mà ngu dốt là nguồn gốc của mọi điều tội lỗi”. Không thể đứng thắp một nén hương trong phật điện hay trước bất cứ một bàn thờ nào, mà người đó bị tâm thần hay trí tuệ ngu muội.

Giải thoát hương là khi có được 3 yếu tố trên thì lúc đó người thắp hương sẽ có được sự thanh thản giải thoát, không còn những lo âu phiền não trần thế, như chuyện sinh, lão, bệnh , tử... Những điều thị phi phàm tục ở đời không còn chấp, lòng từ bi, tràn đầy vị tha.

Giải thoát trì kiến hương là yếu tố thể hiện sau khi đã có được cái tâm định, tâm giải thoát trong sạch, thoát khỏi ham muốn, đạt được sự thanh thản, trí tuệ sáng suốt, sau khi bước ra khỏi cổng chùa từ suy nghĩ biến thành hành động đúng chánh pháp và lòng từ bi hướng thiện



Dâng càng nhiều tiền sẽ được hưởng càng nhiều lộc?
- Ngoài việc thắp hương đi chùa nên cúng đồ lễ gì cho đúng, thưa ông?
- Trong Phật Giáo không có cúng tiền vàng và đặc biệt là không cúng đồ mặn. Tiền vàng và đồ mặn chỉ dùng khi cúng thờ Mẫu hoặc là các vị thánh thần mà thôi. Đến với Phật chỉ cần nén hương và hoa quả. Việc cúng đồ mặn và tiền vàng khi đến chùa hiện nay là do có thể nhiều người khi đến chùa có những nơi có thánh thần hoặc thờ mẫu thì có thể họ cho rằng Phật ở cao hơn thánh thần nên cũng cúng mặn cho Phật, đó là việc làm hoàn toàn sai lệch khi đến với Đạo Phật.





Dâng mâm lễ vàng mã, đồ mặn vào chùa là hoàn toàn không đúng khi đến với cửa Phật.

- Ý kiến của ông về hiện tượng rất nhiều chùa hiện nay người dân dâng tiền lẻ hay đốt vàng mã tràn lan khắp mọi nơi?
- Khi tiền tệ xuất hiện, người đến chùa cúng đồng tiền đó là để đóng góp cho nhà chùa xây dựng, sửa sang đúc chuông tô tượng, nó mang ý  nghĩa như phương tiện vật chất để truyền tải cái tâm, cái ý muốn đến với đức Phật, nhằm góp phần tôn vinh và cụ thể hóa cái tâm của con người trong tinh thần Phật giáo mà thôi. Còn hiện nay khi đi chùa việc dâng, đưa tiền lẻ khắp mọi nơi, đốt vàng mã tràn lan, hoang phí trong chùa với mục đích và suy nghĩ thực dụng rằng cúng, dâng càng nhiều tiền sẽ được hưởng càng nhiều lộc. Đó được coi như là hành động “Hối lộ thánh thần”, hiểu sai lệch hoàn toàn tinh thần của Phật Giáo.
- Xin cám ơn ông!
Hoàng Nguyên (thực hiện)

Ghi chú: Bài viết này sưu tầm trên Internet, tuy có vài điểm chưa đạt tối ưu, nhưng cũng giúp giải tỏa một vài thắc mắc sơ đẳng, căn bản của những người ít đến chùa, thường chỉ đến chùa nhân dịp đầu năm hay khi hữu sự. Kính cảm tạ tác giả của bài viết này.


Tình xuân  
Đâu phải có Mai, có Đào trước ngõ
Hay nến hồng, câu đối, quả dưa
Lòng ta như ngọn gió vờn biếc cỏ
Mênh mông về theo mỗi bước chiều trưa.

Từng ý niệm nở tươi trên màu lá
Mảnh tim đời hương quyện khắp trời xa
Chân rám nắng trên lối mòn sỏi đá
Thương giọt mồ hôi  cát bỏng ngày qua.

Đâu phải có Hoa Hồng hay màu Thược Dược
Chữ "Phước" thếp vàng
Xanh dĩa bánh chưng
Khi ta để mắt nhìn về phía trước
Phía sau ta còn lắm kẻ đau thương !

Dù mặt đất chưa có màu hoa nở
Nhưng ta vẫn đi giữa mùa xuân
Đàn chim én chưa bay về hăm hở
Thương ai còn đau giọt lệ trầm luân !

Tự ngàn xưa
Thuở nguyên xuân trời đất đẹp
Và tấm lòng của biển vẫn mênh mông
Bên góc phố
Vỉa hè
Ngõ đời chật hẹp
Ai mang cho những giọt nắng chiều đông ?

THƠ như hạt cơm, hạt muối
XUÂN như nắng ấm hương hoa
Hạt gạo trắng thơm hương đồng
Hạt muối mặn xanh tình biển
Nắng xanh đời
Xuân gọi bốn mùa hương.


MẶC PHƯƠNG TỬ



PHTQ  SỐ 27 XUÂN ẤT MÙI
http://phtq-canada.blogspot.ca/2014/12/phat-hoc-tinh-quang-so-27-xuan-at-mui.html

CÚNG SAO GIẢI HẠN
http://www.phtq-canada.blogspot.ca/2015/02/au-nam-dang-so-cau-cung-sao-giai-han.html
CẦU TRỜI CÓ ĐƯỢC GÌ ĐÂU
CỐT TỦY CỦA ĐẠO PHẬT
CHÁNH KIẾN VÀ CHÁNH TÍN
CÁCH XƯNG HÔ TRONG PHẬT GIÁO
ĐẠI THẾ CHÍ BỒ TÁT CÀNH HOA SEN XANH
ĐẠO PHẬT BÌNH ĐẲNG VÀ TỰ DO TUYỆT ĐỐI