TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)

TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)
TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)

Saturday, 4 April 2015

*** HOA SEN TRONG BÙN



Tôi mong tất cả Tăng Ni là người lãnh đạo Phật tử, quí vị đi và dẫn dắt Phật tử cùng đi đúng theo con đường đức Phật đã đi.
Đừng đi sai, đừng đi lệch, uổng một đời tu, không biết mai kia có gặp lại Phật pháp không?
Làm sao chúng ta đứng vững và luôn luôn không bị những luồng gió nhơ nhớp của thế gian
làm lem luốc,
phải trong sạch vững vàng trên con đường đạo. Đó là chỗ tha thiết mong mỏi của tôi.
HT Thích Thanh Từ
lllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll

TẾT ẤT MÙI 2015


VP. PHAT-HOC TINH-QUANG CANADA
Kính mời viếng thăm 
DÂNG SỚ CẦU AN - TIỀN MẤT TẬT MANG
CÚNG SAO GIẢI HẠN - TAI NẠN VẪN TỚI
lllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll


 
HT. Thích Thanh Từ


Có lắm người xuất gia cũng như tại gia cho rằng, chúng ta tu không thể nào giác ngộ thành Phật. Vì đức Phật ra đời có những nhân duyên kỳ đặc, bản chất Ngài đã thánh sẵn rồi; còn chúng ta nào là ham mê dục lạc, nào là tội lỗi đầy đầu, nào là sanh nhằm thời mạt pháp căn cơ yếu kém ngu độn v.v... làm sao tu thành Phật được? Ở đây chúng ta hãy nhìn Thái tử là một con người, thật là người để lấy làm mẫu mực hướng theo tu hành. 
THÁI TỬ TẤT-ĐẠT-ĐA (Siddharta) - SỐNG TRONG HOÀNG CUNG
Khi là một ông hoàng ở trong cung cấm, Thái tử bị mọi thứ dục lạc bủa vây: nào là vợ đẹp, hầu xinh, Ngài có cả thảy ba bà vợ, bà Cu-tỳ-gia (Gapica), bà Gia-du-đà-la (Yasodhara), bà Lộc giả (Urganica) và cung phi mỹ nữ. Nào là đàn ngọt hát hay, cả ngày âm thanh dằng dặc không dừng nghỉ. Nào là sự chiều chuộng của vua cha, xây cung điện thích hợp bốn mùa, tạo cảnh vui thích không để Ngài có một phút đăm chiêu. Đây là cảnh thiên đàng ngay trong trần thế, Ngài vui hưởng cảnh này đến năm mười chín tuổi.
THÁI TỬ ĐI TU VÀ THÀNH PHẬT
Chỉ một lần Thái tử trông thấy cảnh già, bệnh, chết của con người, Ngài khổ đau trằn trọc. Tại sao người ta phải chấp nhận lớp người này sanh ra, già, bệnh, chết, rồi lớp khác tiếp tục, cứ thế tiếp tục mãi không có ngày cùng? Ngài cương quyết đập tan cái tiền lệ ấy. Vì thế, bao đêm Ngài thức trắng, lòng Ngài băn khoăn đau xót giày vò, cốt tìm ra lối thoát để cứu mình, cứu chúng sanh. Từ đây, sắc đẹp hát hay, trở thành trơ trẽn tầm thường trước mắt Ngài. Thức ngon vị ngọt, trở thành nhạt nhẽo chán ngán, khi chúng để vào miệng Ngài. Ngài ê chề ngán ngẩm mọi thứ dục lạc tạm bợ trá hình. Ngài cương quyết rời hoàng cung xuất gia tầm đạo. Mặc dù con đường này giăng trải trước mắt Ngài muôn vàn nguy hiểm thập tử nhất sanh, Ngài chấp nhận phải dấn bước. Thế là Ngài xuất gia lúc mười chín tuổi. 
Bao nhiêu năm lang thang trong rừng sâu học đạo, con người vương giả của Ngài đã pha màu sương gió, đã từng trải mọi thứ đắng cay, song ý chí kiên cường quả cảm của Ngài không suy giảm. Học đạo không thỏa mãn, Ngài nguyện thực hành khổ hạnh tột cùng. Nhưng thân sắp hoại mà đạo chưa thấy, Ngài phải sống trung hòa và đến dưới cội bồ-đề ngồi tu bốn mươi chín ngày đêm liền ngộ đạo. Ngang đây, Ngài thành Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni. Đã qua rồi, con đường tầm đạo ngót mười một năm.
Sau khi Ngài thành Phật, Ngài nhìn hồ sen thấy có những hoa đã nở tròn đầy, có những hoa còn búp son trinh, có những hoa đang trụ hình trong nước, có những mầm sen còn vùi trong bùn nhơ. Song tất cả đều có khả năng nở tròn khoe sắc, nhả hương tinh khiết. Chúng đồng trong lòng đất nhớp nhúa vươn lên, khi được hớp sương phơi nắng, chúng đều tròn đủ sắc hương như nhau. Ngài thấy con người cũng thế, khi sanh ra và lớn lên trong vòng mê dục, một phen tỉnh giác con người sẽ tiến lên bậc giác ngộ khó gì. Thế là, Ngài lấy hoa sen để biểu trưng cuộc sống và giáo lý của Ngài. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa là hình ảnh cụ thể nhất. 

PHẬT NGỒI TRÊN ĐÀI SEN
Chúng ta đọc lịch sử Phật, ai cũng biết Bồ-tát đến cội bồ-đề trải cỏ làm tòa ngồi, và thành đạo ngay dưới cội cây này. Hiện nay chúng ta thờ Phật đúng theo tài liệu lịch sử, phải để Ngài ngồi trên tòa cỏ. Tại sao ngày nay chùa nào thờ Phật cũng ngồi trên tòa sen? Đây là để biểu trưng con người của Ngài. Vì trước kia là ông hoàng, Ngài cũng nhiễm ô ngũ dục, như mầm sen còn ở trong bùn. Khi Ngài vượt thành xuất gia là mầm sen ra khỏi bùn, mà còn ở trong nước. Lúc Ngài ngồi tu ở dưới cội bồ-đề và thành đạo là hoa sen ra khỏi nước nở tròn đầy hương thơm ngào ngạt. Hoa sen lại tượng trưng cho sự bình đẳng giữa mọi người. Đã là mầm sen thì mầm sen nào cũng có khả năng vươn lên khỏi bùn, khỏi nước và trổ hoa tươi thắm hương thơm ngạt ngào. 
Đã là con người thì con người nào cũng có khả năng thoát khỏi dục lạc ô nhiễm, thức tỉnh tu hành và đạt thành đạo quả. Phật quả không phải của riêng một người nào, mà của chung tất cả ai có ý chí thoát trần, có quyết tâm đạt đạo. Vì vậy, Phật quả gọi là Vô thượng giác, là giác ngộ không ai trên, song có người bằng; Phật cũng dùng hình ảnh hoa sen để nhắc nhở Phật tử, ở giữa chốn ô nhiễm mà khéo vượt ra bằng trí tuệ sáng ngời của mình. 
Bài kệ nói :
Như giữa đống rác nhớp. 
Quăng bỏ nơi bờ đầm
Chỗ ấy hoa sen nở.
Thơm sạch đẹp ý người.
Cũng vậy, giữa quần sanh.
Uế, nhiễm, mù, phàm tục
Đệ tử bậc Chánh Giác.
Sáng ngời với trí tuệ.
-- (Pháp cú câu 58-59)

Hoa sen mọc chỗ nhớp nhúa mà thơm tho tươi đẹp, sống trong đời nhiễm nhơ mù tối, người Phật tử chúng ta phải khéo dùng trí tuệ vượt ra để cứu mình, và cứu người. Cái quí của hoa sen là sanh từ chốn bùn lầy mà tinh khiết, cái cao cả của người tu là sống trong mọi dục lạc nhiễm ô mà vượt ra an toàn siêu thoát. Hoa hường, hoa lan thơm hơn hoa sen, mà không được nhắc tới, vì sanh ở chỗ đất sạch. Nếu Thái tử là người từ trên trời rơi xuống mà đắc đạo thì không có giá trị gì. Chính trong vòng kềm tỏa của dục trần, mà thoát được mới là bậc đại hùng. 
CÁ NHẢY KHỎI LƯỚI
Đời Tống ở Trung Hoa có hai Thượng tọa Thâm và Minh. Hai vị có duyên sự cùng sang đò qua sông Hoài. Đang sang sông, thấy người bủa lưới đang kéo, có con cá to nhảy khỏi lưới ra ngoài. Thượng tọa Thâm vỗ tay khen: "Hay thay! Như Thiền sư." Thượng tọa Minh không đồng ý bảo: "Phải ở ngoài lưới mới hay, đợi vào lưới rồi mới nhảy là muộn." Thượng tọa Thâm nói: "Huynh Minh chưa hiểu." Đi hơn dặm đường, Thượng tọa Minh bỗng nhận ra chỗ sai, liền sám hối.
Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy thế nào? Con cá trong lưới nhảy là hay, con cá thong dong ngoài lưới là hay? Đạo lý nhà Phật dạy, trong cảnh bủa vây của phiền não mà thoát ra được mới thật là hay. Đây mới thi thố được sức mạnh phi thường của con người thoát tục. Nếu ở ngoài lưới nói gì nhảy, không nhảy làm sao biết được sức mạnh của mình. Hơn nữa, bản thân con người đầy đủ tam bành (tam độc), lục tặc (sáu giặc) lại sáu trần dụ dỗ cuốn lôi, nếu không phải là bậc siêu quần bạt tụy làm sao thắng trận giặc nội công ngoại kích này. Cùng là cá, bao nhiêu con khác bị lưới cuốn không thể giãy vùng, cuối cùng bị người đánh cá bắt bỏ vào giỏ, chỉ một con này nhảy vọt khỏi lưới, không đồng với người xuất trần thoát tục là gì? Nếu chúng ta sanh ra đã là Thánh thì còn nói gì tu. Chính vì chúng ta mang đầy đủ thói hư tật xấu trong mình, chứa đầy tham sân si trong lòng, cho nên gặp cảnh thì nhiễm, trái ý thì sân, quẳng chúng thoát ra, thật là điều khó khăn trăm phần, ai làm được điều đó, đáng cho chúng ta chắp tay tán thán. Vì thế, Tuệ Trung Thượng Sĩ đã làm bài kệ:

XUẤT TRẦN

Tằng vi vật dục dịch lao khu 
Bài lạc trần hiêu thế ngoại du
Tán thủ na biên siêu Phật Tổ
Nhất hồi đẩu tẩu nhất hồi hưu.
Dịch:

RA KHỎI BỤI HỒNG
Đã từng ham muốn phải long đong 
Ném quách mà ra khỏi bụi hồng
Buông thõng bờ kia lên Phật Tổ
Một lần phủi giũ một lần xong.
Bởi vì chúng ta chạy theo vật dục nhân gian nên phải khổ sở gian nan. Nếu can đảm ném phắt hết, vượt ra ngoài vòng trần lụy, quả là can đảm phi thường. Có thể, mới buông thõng tay bước lên ngôi nhà Phật Tổ được. Song phải mạnh dạn dứt khoát, một lần bỏ đi không thèm ngó lại. Chớ đừng học thói nhầy nhụa, dùng dùng thẳng thẳng cắt không đứt, bứt không rời, một chân bước tới hai chân bước lui, không làm nên trò trống gì, chỉ chuốc trò cười cho hàng thức giả. Bởi vậy nên nhà thiền thường dùng câu "giết người không ngó lại" là ý này. Phải can đảm dứt khoát thì việc khó mấy cũng thành công. 

TRẦN NHÂN TÔNG: ÔNG VUA, TU SĨ
Vua Trần Nhân Tông sanh năm 1258, lên ngôi vua năm hai mươi tuổi, xuất gia năm bốn mươi mốt tuổi và năm mươi mốt tuổi tịch (1308). Suốt hai mươi năm, Ngài là bậc nhân chủ lãnh đạo quốc gia giữ nước chăn dân, ngồi trên ngai vàng sống trong cung ngọc, mọi thứ dục lạc đều dư thừa. Hai phen cầm quân chống giặc xâm lăng, nhân mạng hy sinh rất lớn. Bổn phận giữ nước chăn dân, Ngài làm đầy đủ. Năm bốn mươi mốt tuổi, Ngài nhường ngôi cho con, đi xuất gia. Lúc nhỏ Ngài đã được vua cha và thầy là Tuệ Trung Thượng sĩ chỉ dạy đạo lý thiền nhuần thấm sâu xa, nên khi xuất gia Ngài không cần tầm học, chỉ thực hiện điều đã học được.

Trong mười năm, là kẻ xuất gia Ngài mang hiệu Trúc Lâm Đầu-đà, tích cực hoạt động truyền bá chánh pháp. Trong giới xuất gia, Ngài giáo dục chúng Tăng, có khả năng đảm đang giáo hội. Trong dân chúng, Ngài đem pháp Thập thiện giáo hóa toàn dân, khiến Phật pháp mở rộng trong nhân gian. Công tác hoằng truyền Phật pháp, giáo hóa nhân dân, Ngài làm suốt đời không dừng nghỉ.

Khi sắp tịch, Ngài nằm tại Ngọa Vân am sai người gọi Bảo Sát đến. Ngày một tháng mười một, đúng nửa đêm, sao sáng đầy trời, Ngài hỏi: Bây giờ là giờ gì? Bảo Sát thưa: Giờ Tý. Ngài đưa tay ra hiệu mở cửa sổ để nhìn ra ngoài, nói: Đến giờ ta đi vậy. Bảo Sát hỏi: Tôn đức đi đâu bây giờ? Ngài đọc lại bài kệ:
Nhất thiết pháp bất sanh 
Nhất thiết pháp bất diệt
Nhược năng như thị giải
Chư Phật thường hiện tiền
Hà khứ lai chi hữu?



Dịch:



Tất cả pháp chẳng sanh 
Tất cả pháp chẳng diệt
Nếu hiểu được như thế
Chư Phật thường hiện tiền
Nào có đi có lại?

Bảo Sát hỏi thêm: Khi chẳng sanh chẳng diệt thì sao? Ngài khua tay nói: Thôi đừng nói mê nữa. Rồi Ngài ngồi theo kiểu sư tử tọa mà tịch... (Tam Tổ thực lục).
Qua ba giai đoạn trên, chúng ta thấy Ngài sống giai đoạn nào ra giai đoạn ấy. Lúc làm vua thì quên mình giữ nước, hết dạ chăn dân. Khi đi tu, nhiệt tâm vì đạo mài miệt tu hành, chẳng ngại nhọc nhằn hết tình với tăng tục. Vì thế, trên đường đời Ngài thành công viên mãn, trên đường đạo thì đạo quả viên thành. Chính thái độ dứt khoát tích cực, nên lãnh vực nào Ngài cũng thành công. Ngài cũng hưởng dục lạc trong hoàng cung, cũng cầm binh khiển tướng ngoài trận mạc, nếu nói là tội lỗi thì cũng tràn trề. Song khi dứt khoát tiến tu thì cắt đứt mọi quá khứ, sống kham khổ tu hành, nên lấy hiệu đầu-đà (khổ hạnh). Với ý chí cương quyết đó, chỉ trong vòng mười năm, Ngài đã tiến đến chỗ sanh tử tự tại. Đây là tấm gương sáng rỡ để nhắc nhở chúng ta, không sợ mình trước mê lầm tội lỗi, chỉ sợ xuất gia rồi mà thái độ vẫn mập mờ. Ngài là con người thấy được đạo lý và sống được đạo lý. Chúng ta đọc bài kệ kết thúc bài phú Cư Trần Lạc Đạo của Ngài thì rõ:
Cư trần lạc đạo thả tùy duyên 
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên
Gia trung hữu bảo hưu tầm mích
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.



Dịch:



Trong đời vui đạo hãy tùy duyên 
Đói đến thì ăn mệt nghỉ liền
Nhà mình báu sẵn thôi tìm kiếm
Đối cảnh không tâm, chớ hỏi thiền
.

Sống ngay trong lòng trần tục mà khéo biết đạo vẫn thấy an vui. Duyên cảnh đổi thay tùy thời linh động, như khi đói thì ăn, khi mệt thì nghỉ, đừng cố chấp cứng nhắc mà tự khổ đau. Phật đã sẵn nơi ta, khỏi phải nhọc nhằn sang đông tìm tây. Cái khôn ngoan khéo léo của chúng ta là "đối cảnh tâm không động", chính nơi đây là thiền rồi, còn thưa hỏi đâu nữa. 
Người học đạo nhận thấy Phật đã sẵn nơi tâm mình, song muốn Phật hiện thì tâm đừng chạy theo cảnh. Đây là lối tu thật giản đơn, thật cụ thể, mà người đời khó tin khó nhận. Người ta chỉ tin Phật ở Tây phương, phải siêng năng lễ bái thì được phước, được Phật rước về cõi Phật. Bởi vậy Tổ Lâm Tế nói: "Người ngu cười ta, kẻ trí biết ta." Cười, vì thấy không tụng kinh lễ bái, chẳng biết tu cái gì? Biết, vì thấy lối tu tế nhị cụ thể thiết thực, không còn gì nghi ngờ. Một ông vua, xuất gia chỉ có mười năm mà đạt đạo như vậy, thật đáng quí kính biết dường nào. Cho nên triều đình tôn xưng Ngài là Điều Ngự Giác Hoàng. 

THÁI TỬ TẤT-ĐẠT-ĐA VÀ TRẦN NHÂN TÔNG
Thái tử là ông hoàng chưa từng đối đầu với mọi việc khó khăn ở đời, chỉ thấy cảnh già, bệnh, chết là phát tâm đi tu. Mục đích Ngài đi tu để tìm phương pháp phá vỡ cái luật khắc nghiệt của kiếp con người mà muôn thuở đã chấp nhận. Ngài phải trả cái giá rất đắt là, mười một năm nằm gió phơi sương lang thang trong rừng núi, ăn uống sơ sài cho đến kiệt sức. Đến khi giác ngộ viên mãn phương pháp giải thoát sanh tử tuyên bố thành Phật. Đây là người khai mở con đường đạo giác ngộ giải thoát. Tức là Ngài đã phá vỡ luật khắc nghiệt (già bệnh chết) chi phối mình và đem ra chỉ dạy mọi người. Việc làm của Ngài là muôn thuở không hai.
Vua Trần Nhân Tông là người kế thừa con đường của Phật đã vạch sẵn. Bởi kế thừa nên công phu đơn giản và nhẹ nhàng, chỉ cần đem đuốc mình mồi vào đuốc Phật là cháy sáng. Do đó đi tu Ngài không khổ công tầm đạo, chỉ cần ứng dụng đạo đã sẵn vào việc tu hành là thành công. Tuy vậy cũng không phải là việc dễ dàng, mặc dù có công thức chỉ rõ, muốn ứng dụng công thức ấy phải gan góc cùng mình, phải mạnh tay chặt đứt mọi xiềng vàng xích ngọc, phải hùng dũng nhảy vọt khỏi mấy lớp rào tình cảm bịt bùng.
Hai Ngài đều chôn mình trong cung vàng điện ngọc, bị bao vây bởi đám cung nữ phi tần, bị phủ kín trong tiếng đàn ngọt hát hay, bị siết chặt bởi mùi thơm vị quí. Song cả hai đều quả cảm thoát ra không chút đoái hoài luyến tiếc. Do đó hai Ngài làm được việc khó làm, để lại cho đời tấm gương phi phàm xuất chúng. Hai Ngài là hai mầm sen chôn sâu trong vũng bùn ngũ dục, vươn lên khỏi nước nở tròn tươi thắm và tỏa ra mùi hương tinh anh thanh khiết bủa khắp cả trần gian.
Qua những hình ảnh trên, chúng ta có đủ kinh nghiệm trong việc tiến tu, không còn e dè nghi ngại gì nữa. Bởi vì không có vị nào đã là thánh rồi thành thánh, mà tất cả đều bị bao vây bởi phiền não dục trần. Cái đặc điểm của các ngài là nhạy cảm sớm thức tỉnh và anh dũng khi cần thoát nó. Điều đó chúng ta có thể học được, có ai thấy cảnh già bệnh chết mà chẳng buồn, có ai không khí khái khi thốt ra những lời thề bán mạng. Chỉ cần chúng ta triệt để ứng dụng cái nhạy cảm của mình để phát chí tu hành, khéo xoay chuyển cái khí khái của mình vào con đường quyết tử cầu đạo. 

Dám hạ quyết tâm trên đường hành đạo, chúng ta sẽ thu gặt được kết quả chắc chắn không nghi. Chúng ta là những mầm sen phơi mình trên bùn ngũ dục, thoát khỏi nó để vươn lên có khó gì? Chúng ta đâu có cung vàng điện ngọc, đâu có cung phi mỹ nữ... mọi dục lạc tìm cầu rất khó, nếu thoát nó thì hết sức nhẹ nhàng, chỉ cần một cái nhảy nhẹ đã ra khỏi rồi, thế mà chúng ta cứ chần chừ không ưng nhảy. Đây là yếu điểm muôn kiếp chịu trầm luân của chúng ta.



CHUYỆN TRONG CHÙA



-  Thưa Thầy, tôi thường đi hộ niệm đám tang, chẳng biết như thế có ích lợi gì chăng?



-  Đạo hữu phát tâm đi hộ niệm cho người khác như thế, ích lợi cho người thì khó nói, nhưng đối với bản thân, thiện căn và tâm từ bi được tăng trưởng. Phước đức vô lượng.



-  Thưa Thầy, chỉ vậy thôi sao?



-  Khi đi hộ niệm như thế, nếu mình quán niệm về sự vô thường trên thế gian: nay còn mai mất, trên đời không vật gì, việc gì tồn tại mãi mãi. Ngay tấm thân của mình cũng vậy, cát bụi sẽ trở về cát bụi. Cho nên mình phát tâm cố gắng tu tập, để ngộ được bản tâm thanh tịnh thường hằng, bất biến, không hoại diệt theo thân xác. Đó chính là con người thật của mình. Nhờ đó, con người thoát ly được sinh tử luân hồi. Đây chính là mục đích cứu cánh của đạo Phật.



-       Tôi thành thực đa tạ tấm lòng từ bi của Thầy đã khai ngộ cho tôi.



-        Mô Phật !





CHUYỆN TRONG CHÙA



-        Chị Hai ơi, em mời mấy nhà sư đến nhà em tụng đám tang và mở cửa mả cho bố em, tại sao nhà chùa lại đòi tiền? Chùa thì phải “free” chứ, bá tánh lập ra chùa, chùa phải phục vụ bá tánh chứ, đúng không?



-        Ừa! Chị nói đúng quá hen! Chị đã cúng bao nhiêu tiền cho chùa, từ lúc lập chùa đến nay?



-        Em có cúng đồng nào đâu?



-        Vậy thì chị đâu phải là “bá tánh” đã lập chùa, sao lại đòi được phục vụ “free” ?



-        ? !





CHUYỆN TRONG CHÙA



-        Tui tu đã hơn 10 năm, cô kia mới tu mà đi trước tui, đứng trước tui, bậy quá, coi sao được?



-        Cô kia mới tu, chưa biết qui củ. Cô nói tu đã hơn 10 năm, sao vẫn còn phiền não đến thế ư ?!





XIN QUẺ ĐẦU NĂM



- Thưa Ni sư, đầu năm xin xăm, con bắt nhằm quẻ “hạ hạ”. Có phải con bị xui xẻo, tai nạn suốt năm không, con phải làm sao đây Ni sư?



- Như vậy là xui tận mạng rồi chứ còn gì nữa. Con phải đi chùa lạy Phật nhiều, cúng chùa nhiều, mới hóa giải tai ách này được. Nhớ đó.



- Trời ơi! Chết con rồi, trời!

* * *



- Thưa Ni sư, đầu năm xin xăm, con bắt nhằm quẻ “hạ hạ”. Có phải con bị xui xẻo, tai nạn suốt năm không, con phải làm sao đây Ni sư?



- Chào đạo hữu. Đạo hữu hãy an tâm, không có gì xui xẻo hết đâu. Mấy cái quẻ xăm này để lắc cho vui, để những người còn tin chuyện linh thiêng huyền bí, thích cầu khẩn van xin về chùa dịp đầu năm.

Chuyện hên hay xui của con người tùy thuộc chuyện làm thiện hay làm ác trong cuộc sống, chứ không phải tùy thuộc nơi quẻ xăm này.



Đó là luật nhân quả.



Người làm việc thiện thì gặp phước báo, gặp may, gặp hên.

Người làm việc bất thiện thì gặp quả báo, gặp xui, gặp nạn tai, trắc trở.



- Nếu muốn tránh xui xẻo, tai qua nạn khỏi con phải làm sao?



- Con người nhiều đời nhiều kiếp vừa làm việc thiện, vừa tạo nghiệp chẳng lành. Cho nên, có khi gặp may, có khi chẳng may. Để tránh xui xẻo xảy đến, con người phải biết sám hối và nguyện không làm chuyện sai trái, đem đau khổ cho người, qua thân (đánh người), miệng (chửi mắng, nói xấu), và ý nghĩ (nghĩ xấu, nghi ngờ).

Thêm nữa, hãy tạo phước báu bằng cách cứu người, giúp đời, tu nhân tích đức, bù lại việc xấu ác đã tạo nghiệp trước kia.



- Nhưng mà con vẫn lo sợ chuyện xui xẻo xảy đến. Vậy con phải làm sao?



- Con thử xin quẻ khác xem sao, chắc là quẻ khác?



- Ờ hén, cám ơn Ni sư chỉ dạy rõ ràng. Con sẽ đi chùa thường xuyên để học đạo lý với Ni sư, Ni sư cho phép con nha.



- Mô Phật. Như vậy gọi là đi chùa đúng chánh pháp. Quí lắm.


HỎI ĐÁP PHẬT PHÁP (PHẬT HỌC TỊNH QUANG)

From: NAM ANH NGUYỄN.

Subject: Tre em khong biet noi Tieng Viet thi lam sao doc va hieu duoc sach kinh Phat ?
To: cutranlacdao@yahoo.com

Thua Thay



1/ Nhieu bac cha me khong cho tre em hoc tieng Viet, hay day con ve bat cu dao nao, thi lam sao tre em ngay nay hay tre em ngay mai hieu ranh duoc dao Phat la gi? Ngay ca cha hay me khong hoc hoi ve dao Phat thi tuong lai tre em se ra sao?

Con biet khong it nguoi Viet tai hai ngoai co dieu suy tu nay. Thay co giai phap gi khong, neu duoc xin Thay goi bai cho moi nguoi cung doc.



2/ Co hoc ve dao thi tot hon la khong hoc ve dao Phat va dao Cong giao:

Dao Phat co 5 dieu cam ky khong duoc lam: khong sat sanh, khong noi doi, khong ta dam, khong trom cap, khong uong ruou.

Dao cong giao co 10 dieu ran day: hieu thao cha me, khong giet nguoi, khong quyen ru lay vo chong nguoi khac, khong noi doi, khong lam chung doi wrong witness, khong tham cua nguoi khac……

Nguoi co dao, thi neu co bat cu luc nao trong doi, co nguoi muon lam dieu sai, thi nho den nhung dieu ngan cam thi se khong lam? Chang han nhu noi doi hay lam chung doi, trom cap hay khong tham lam lay cap do cua nguoi khac, ta dam, hay quyen ru vo chong nguoi khac ….

Nhu vay co hoc ve dao thi van tot hon phai khong Thay ?

Con cam on Thay

Con




Phúc đáp của VP.PHTQ.CANADA



1.*** Những gia đình không cho con em học tiếng Việt, thì trẻ em phải dùng tiếng địa phương. Trẻ em lớn lên sẽ dùng tiếng địa phương để sinh hoạt trong xã hội, đọc sách báo, xem TV bằng tiếng địa phương. Nếu các em muốn tìm hiểu về tôn giáo, hay bất cứ lãnh vực nào khác, dĩ nhiên phải dùng tiếng địa phương. Sách vở về tôn giáo bằng tiếng Anh, tiếng Pháp, hay các thứ tiếng khác đầy dẫy trong các thư viện. Hiện nay, một số nhà sư trẻ có khả năng ngoại ngữ đang cố gắng truyền bá đạo Phật cho thế hệ trẻ. Trẻ em sẽ tự quyết định theo tôn giáo nào - khi đã trưởng thành.



Vấn đề là các bậc cha mẹ, những người lớn tuổi, mãi lo kiếm sống hay làm giàu, quên đi việc chăm sóc tương lai của con em qua việc giữ gìn tiếng Việt trong gia đình. Thêm nữa, những người lớn tuổi này bận rộn trong cuộc sống vật chất, chẳng còn thời giờ nào cho đời sống tâm linh, chẳng đi đến chùa, cũng chẳng viếng nhà thờ.Có chăng, họ thích viếng thăm casino, đi du lịch, đi picnic, đi ăn nhậu party.


Nhiều ông bà già 70, 80 còn lên internet chửi lộn om trời, văng tục không ai chịu nổi. Nhiều ông bà già vô chùa, vô nhà thờ đâu phải để cúng lễ Phật, cầu nguyện Chúa, tìm học giáo lý, hay suy ngẫm chân lý gì đâu. Họ đi chùa vì danh (tranh làm chức sắc), vì lợi (bán hột xoàn, bán bảo hiểm), vì nhiều chuyện (ở nhà không nói chuyện được với ai). Họ đi chùa, nhà thờ, để soi mói xem các sư, các cha có tu đàng hoàng hay không? Còn họ chẳng cần tu gì ráo. Khi có chuyện xảy ra, các sư các cha là người tu phải nhịn. Họ vổ ngực tui không phải là người tu, cho nên tui tới luôn. Kiếp nạn của các sư các cha là thế đó.



Đợi đến khi con cái bỏ nhà đi hoang, gia nhập băng đảng, gây ra án mạng, phạm tội hình sự, bậc cha mẹ mới giựt mìn, không còn nói chuyện với con được nữa, bèn chạy vô chùa, hay nhà thờ, tìm sư, kiếm cha, nhờ cầu Phật, nguyện Chúa từ bi bác ái giáng trần cứu giúp cho. Chúa ơi cứu con! Phật ơi cứu con! 


Tệ nữa, đến khi ngã bệnh, bác sĩ bó tay, họ đâm ra hoảng hốt, lúc đó mới chạy lo heo gà cúng kiến, van vái khắp bốn phương. Thầy bùa, thầy pháp, thầy cúng, đồng cô, bóng cậu, cục đất, cục đá, cây chuối, cây dừa, suối nước, hang đá, chỗ nào nghe đồn linh thiêng, họ không hề tiếc tiền tìm tới. Nhiều người bị các tay cò mồi gạt bán thuốc trị bá bệnh của sư tây tạng 1000 đô 1 viên, trị hết ung thư, cũng chịu mua luôn. Nếu họ còn chút phước báo, tai qua nạn khỏi, họ lại quên hết chùa chiền, nhà thờ, lại đi chơi tiếp.



2.*** Đối với các tôn giáo, nhờ những hình thức nghi lễ, các nhà tu hành đưa giáo lý đến với đại chúng. Nếu đại chúng chỉ tới các cơ sở tôn giáo (chùa chiền, nhà thờ) khi có chuyện bất trắc xảy ra thì thật là mê tín. Họ  không biết rằng các chuyện bất trắc vẫn xảy ra cho các sư trong chùa, hay các cha trong nhà thờ. Các sư các cha nhiều khi không vượt qua được làm sao cứu giúp tín đồ? Không có Chúa hay Phật nào cứu giúp con người qua lời cầu khẩn van xin, khi chính con người không biết làm lành, lánh dữ.


Các giới cấm hay các điều răn của các tôn giáo là những điều kiện căn bản cho đời sống đạo đức, đời sống tâm linh của con người trong xã hội. Giữ gìn các giới cấm hay các điều răn, con người sẽ đạt hạnh phúc thế gian, xã hội được bình an.

Sách có câu: bình an dưới thế cho người thiện tâm, chính là nghĩa đó vậy.

Người có thiện tâm dù đang sống ở thế gian này cũng được bình an. Người không có thiện tâm, lại có ác tâm, mà vô chùa cầu vãng sanh, vô nhà thờ cầu được diện nhan thánh Chúa, đúng là chuyện tào lao.


Trước khi nói chuyện vãng sanh (hay cao đăng Phật quốc), hay thăng thiên đời đời trên cõi thiên đàng, con người cần phải sửa đổi tâm tánh - từ ác tâm thành thiện tâm - trước hết. Cái ly bị dơ dít, dời đi chỗ nào cũng sẽ làm dơ chỗ đó. Hãy lau sạch cái đít ly trước khi dời đi, mới là người có  một chút trí tuệ.

Hãy lo tu tâm dưỡng tánh trước khi lâm bệnh, trước khi lâm nạn.

Hãy lo tìm hiểu hạnh phúc thế gian và hạnh phúc xuất thế gian khác nhau thế nào, làm sao đạt được.

Tóm lại, người có tôn giáo, biết theo đạo (đạo là lẽ phải, là chân lý) là người có hạnh phúc, có cuộc sống bình an, trong một xã hội bình an.[]



Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ

VP.PHTQ.CANADA - Email: cutranlacdao@yahoo.com









From: NHUNG N.


To: PHAT-HOC TINH-QUANG CANADA <cutranlacdao@yahoo.com>

Con cam on Thay. Con co forward bai email duoi day cua Thay cho chi Hai va em Yen cua con. Tuy la dao cong giao nhung 3 chi em van doc sach va nghe them kinh ben Phat (vi Me con la dao Phat va khi chet duoc chon cat tai phan dat cua Chu`a nha Phat). Con da nhan duoc sach Tu Bi Tri Tue so 22 roi. Moi doc duoc vai trang da thay hay. Con cam on Thay.

BBT PHẬT HỌC TỊNH QUANG PHÚC ĐÁP

NHUNG. N kính mến,


Em YẾN phát tâm từ thiện, cứu người, giúp đời là điều tốt.

Cũng như gieo giống (nhân) trồng lúa hay trồng cây ăn trái (quả) chẳng hạn.

Giống tốt (tâm tốt- nhân tốt) nếu gieo trên mảnh đất tốt thì gặt quả tốt (may mắn, tai qua nạn khỏi).



-Thế nào là mảnh đất tốt?

- Đó là nơi mình đóng góp tịnh tài.

Nếu đó là tổ chức thực sự đem lại ích lợi cho nhiều người, về mặt đời sống thể chất hay tâm linh,

thì đó là mảnh đất tốt để gieo trồng.



Chẳng hạn như tập san Từ Bi& Trí Tuệ của BBT.PHTQ.CANADA, tuy mang hình thức PG, nhưng thực sự đem lại sự hiểu biết chân chánh cho tất cả mọi người - không phân biệt tín ngưỡng hay tôn giáo. Từ sự hiểu biết đó, mọi người thấm nhuần, hiểu rõ chân lý, biết rõ sự thực, không còn phiền não khổ đau trong cuộc sống thực tế hàng ngày. Họ thầm cám ơn những người đóng góp công sức viết bài, tịnh tài in sách ấn tống cho nhiều người được hưởng phước báu này. Do đó, công đức và phước đức của việc góp phần, hùn phước mới có ý nghĩa thiết thực hơn nhiều việc từ thiện khác.



Các việc từ thiện, cứu đói, chữa bệnh, rất tốt rất hay. Nhưng những người đó có thể sẽ bị đói tiếp vì nghèo kinh niên, hay bị bệnh tiếp trong những thời gian sau này.

Còn bố thí pháp như BBT.PHTQ.CANADA đang làm, cứu được đời sống tâm linh rất nhiều người. Những người thấy được ánh sáng chân lý, cuộc đời của họ không còn phiền não khổ đau nữa. Và họ còn có thể chia sẻ niềm hạnh phúc đó cho nhiều người. Chứ miếng ăn, thức uống hay thuốc men, dùng qua một lần cho người nào thì chấm hết, không còn dùng cho người khác được nữa.

Do đó bố thí pháp là tối thượng. Dĩ nhiên, các việc bố thí từ thiện khác cũng nên làm.


BBT.PHTQ.CANADA.

Kính thư,

Thầy Chân Tuệ


 MỜI THAM KHẢO THÊM NHỮNG BÀI VIẾT THEO LINKS



SỐNG HẠNH PHÚC CHẾT BÌNH AN
LOẠN ĐẦU NĂM MUA SỰ PHIỀN NÃO
SỐNG SAO LỢI MÌNH LỢI NGƯỜI
LÀM SAO TU THEO ĐỨC PHẬT
LƯƠNG TÂM VÀ PHẬT TÂM
CHUỖI NGỌC TRÂN BẢO PHÁP THÍ
ÁNH SÁNG TỪ CÂU KINH PHẬT
ĐI CHÙA BƯỚC ĐẦU HÀNH TRÌNH TÂM LINH
ĐI CHÙA ĐÚNG CHÁNH PHÁP