TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)

TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)
TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)

Wednesday, 8 May 2019

SAIGON 1975

https://phtq-canada.blogspot.com/2019/05/saigon-1975.html

Ấn tượng Saigon đầu tiên với tôi, thằng nhóc Trà Vinh 10 tuổi lên Saigon du hí hè lúc ấy là được ngồi dưới cái cảng xe xích lô máy ngắm phố phường đông đúc trong tiếng máy nổ “pành pành” hùng dũng, oai vệ. 

Tôi biết Saigon từ đầu thập niên 1970, trong mắt cậu bé lên 10 dân tỉnh lẻ thời đó Saigon vô cùng ấn tượng và thú vị.

Cứ mỗi hè về, Saigon là phần thưởng cho thành tích học tập cả năm. Năm anh chị em lóc nhóc chúng tôi được mẹ dắt díu đi xe đò từ Trà Vinh lên Saigon. Hai trăm cây số nhưng có khi mất cả ngày vì kẹt phà Mỹ Thuận, vì những trở ngại bởi chiến tranh. Chờ đợi, mệt nhọc nhưng khi Xa cảng Miền Tây hiện ra thì dường như ai cũng hân hoan, háo hức.

Oai vệ ngồi ở cảng xe xích lô máy nổ “pành pành”

Ấn tượng Saigoài Gòn đầu tiên với tôi chính là được ngồi dưới cái cảng xe xích lô máy ngắm dòng người, phố phường đông đúc, thích hơn nữa bởi tiếng máy nổ “pành pành” hùng dũng, oai vệ!
Lên Saigon, đi xích lô máy thời những năm 1960-1970 là “oai” lắm – Ảnh: LIFE
Oai vệ ngồi ở cảng xe xích lô máy nổ “pành pành
Những chiếc xích lô máy nhiều màu sắc.
Thời đó từ quê tôi lên Saigon còn có cả tuyến hàng không chỉ mất nửa giờ bay. Tôi từng có một chuyến bay khứ hồi nhưng xem ra đi xe đò vẫn thú hơn.
 Lên Saigon chúng tôi thường tá túc nhà người cậu ở đường Tháp Mười, đối diện chợ Bình Tây mà nhiều người vẫn quen gọi là “Chợ Lớn mới”. Ngay sát chợ có ngôi nhà cổ tường vôi, trên chóp cao có gắn cây cột thu lôi.
Ấn tượng Saigon xưa với tôi còn là những chiếc taxi màu xanh trắng mà mẹ tôi gọi là “xe con rùa”. Xe khá chật hẹp, không máy lạnh, chỉ có cây quạt máy nhỏ gắn trên trần xe. Xe khác không biết sao chớ mấy xe tôi đi không thấy đồng hồ tính tiền và cũng ít ai hỏi giá trước, cứ tới nơi là “nói nhiêu trả nhiêu” mà dường như không nghe thấy chuyện “chặt chém”.

Nhưng gắn bó nhất với tôi chính là chiếc xe lam. Xe lam có mặt ở nhiều tuyến đường và có thế mạnh là muốn ghé đâu ghé, không cần trạm dừng như xe buýt. Tài xế xe lam có lẽ là những người “lanh mắt nhất hành tinh” khi giữa dòng xe cộ đông đúc mà chỉ cần bạn “nhích nhẹ cánh tay” là “tấp vô ngay”. Giá cả thì hết sức “hữu nghị”, xe không có lơ, khách xuống xe chỉ cần “khều lưng” tài xế đưa tiền là xong, ít khi thấy cãi vã, kỳ kèo chuyện tiền bạc.
Xe lam, taxi, xích lô máy ở khu vực trung tâm Saigon, trước chợ Bến Thành những năm 1970 – Ảnh tư liệu
Hồi đó có khi cả ngày mấy anh em tụi tui tới lui trên những chuyến xe lam. Số là mỗi khi lên Saigon là phải đi coi phim kiếm hiệp, võ thuật Hồng Kông cho đã, thời đó chúng tôi mê như điếu đổ mấy cái tên Lý Tiểu Long, Khương Đại Vệ, Địch Long, Trần Quang Thái, Sương Điền Bảo Chiêu.
Đầu tiên là hai rạp Lê Ngọc và Đại Quang thường chiếu phim mới trên đường Châu Văn Liêm ngày nay. Do muốn xem lại một vài phim cũ nên phải “nhờ xe lam” đưa ra các rạp vùng ven ngoại thành. Mấy anh chị lớn thích xem phim Pháp, Mỹ thì tới rạp Rex, Mini Rex ở trung tâm Saigon. Còn “hộ tống” mẹ xem cải lương, hồ quảng có rạp Thủ Đô, Hào Huê, đại nhạc hội thì thường ở rạp Quốc Thanh, Lệ Thanh.
Với tôi thì thích nhất vẫn là xem phim vì được ngồi máy lạnh xem đi xem lại cả ngày (chiếu thường trực mà)! Có một kỷ niệm với xe lam là lần đó khi chiếc xe vừa vòng ra cổng xa cảng Miền Tây thì lật nhào do tránh chiếc xe đạp.
10 người trong xe đổ chồng lên nhau la chí chóe, nhiều người xúm lại cứu giúp, giở xe lên, tội nghiệp bác tài tuổi ngoài 50 luống cuống thăm hỏi, xin lỗi mọi người; đồ đạc của ai còn đó, không có cảnh mất mát, cãi vã mỗi khi va quẹt như hiện nay. Tôi nhận thấy chiếc xe này thật lạ, lòn lách hay mà cũng dễ nhào đầu!

Saigon hiện đại, Chợ Lớn ăn ngon

Nói về tính hiện đại thì thời nào cũng vậy, Saigon là nhất. Đi nhà hàng với tôi không vì món ăn mà là được “đi thang máy”. Còn thang cuốn ngày nay tràn lan thì Saigon trước năm 1975 nếu thằng nhóc 10 tuổi ở tỉnh lẻ lên lúc đó chắc đi không hết nên với tôi thì có ở thương xá Tam Đa và rạp Rex ở quận nhứt.
Nhưng có lẽ cái không thể không nói chính là người Saigon, văn hóa Saigon.
Saigon có cái đặc biệt là hình thành hai khu vực có nét văn hóa, sinh hoạt khá khác biệt là khu Saigon và khu Chợ Lớn. Khu Chợ Lớn với nhiều người Hoa sinh sống, từ đó hình thành một không gian “tiểu Hồng Kông” với ngôn ngữ phổ biến là tiếng Quảng Đông (người Hoa ở khu Chợ Lớn dù là người Tiều, Hẹ, Phước Kiến, Hải Nam đều có thể nói thông thạo tiếng Quảng Đông; ở Bệnh viện Triều Châu (nay là BV An Bình) nơi chị tôi làm y tá vẫn sử dụng tiếng Quảng Đông là chính).
Chợ Lớn mạnh về ăn uống và mua bán các mặt hàng tiêu dùng như khu La Cai, các chợ Bình Tây, An Đông, Kim Biên.
“Món ăn Chợ Lớn” mà tôi thích tới ngày nay chính là món bột chiên từ các chiếc xe đẩy trên đường phố; là các xe mì gõ, “ziển phảnh” (hủ tíu bò viên), cũng như thích lạc vào “thế giới người Hoa” với xây chừng (cà phê đen), xây nại (cà phê sữa), tài có (đại ca – anh trai), ngọ – nị (mày – tao).

Khác với sự sầm uất của Chợ Lớn, khu Saigon thông thoáng, hiện đại hơn, mang dáng dấp Tây hơn với nhiều khu ăn chơi dành cho giới thượng lưu, sĩ quan, quan chức chính quyền Saigon và quân đội đồng minh.
Là nơi mà người dân tỉnh lẻ chúng tôi ít có điểm “ghé vào”, có chăng là dạo vài vòng ngắm cảnh.

Theo Tuổi Trẻ

llllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll

Đâu rồi xích lô Saigon xưa?


Xích lô là một phượng tiện giao thông rất đỗi quen thuộc của người Saigon những năm 50, 60 của thế kỷ trước. Thời ấy, người ta có thể dễ dàng bắt gặp xích lô ở mọi nẻo đường, chở đủ mọi tầng lớp. Nghề xích lô lúc ấy dễ sống, lại là một biểu tượng đẹp của Saigon.

Saigon những năm 50. (Ảnh qua tachcafe.com)

Ngày nay, xích lô Saigon đã lui vào dĩ vãng. Người mưu sinh bằng nghề này không còn nhiều, hầu hết đều là những người đã già lại nghèo, quá gắn bó với cái xích lô mà không nỡ bỏ, cũng chẳng biết tìm nghề nào khác. Cuối những năm 90 của thế kỷ trước, Saigon đã bắt đầu cấm xích lô ở một số tuyến đường. Cuộc sống cứ ngày càng khó khăn hơn với cái nghề xích lô. Đến năm 2010, mặc dù nhu cầu chạy của khách du lịch vẫn rất nhiều, xích lô đã bị cấm hẳn trong nội thành.


(Ảnh qua yume.vn)


Nhưng Saigon vẫn thấp thoáng bóng dáng xích lô. Chẳng là người chạy thì vẫn cứ chạy, trật tự bắt thì vẫn cứ bắt. Trong cái cuộc mưu sinh ấy, người gắn bó với nghề này vẫn cố kiếm miếng ăn, cố tìm vui trong những điều cơ cực, tự do tự tại được chừng nào hay chừng ấy.

Saigon những năm 50. (Ảnh qua tachcafe.com)


Saigon những năm 50. (Ảnh qua 36hn.wordpress.com)


Saigon những năm 50. (Ảnh qua pinterest.com)


Saigon những năm 50. (Ảnh qua flickr.com)


Saigon những năm 50. (Ảnh qua tiepthithegioi.vn)


Saigon những năm 50. (Ảnh qua 36hn.wordpress.com)


Saigon những năm 50. (Ảnh qua 36hn.wordpress.com)


Saigon năm 1961. (Ảnh qua pinterest.com)



Saigon năm 1961. (Ảnh qua kenh14.vn)


Saigon những năm 60. (Ảnh qua youtube.com)


Saigon những năm 70. (Ảnh qua kienthuc.net.vn)


Saigon những năm 70. (Ảnh qua tachcaphe.com)


Saigon năm 1996. (Ảnh qua kienthuc.net.vn)


Saigon năm 1972. (Ảnh kienthuc.net.vn)

 Theo trithucvn.net
lllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll









Ảnh: thông qua panoramio.com




(Ảnh: thông qua chauxuannguyen.org)

(Ảnh: thông qua kienthuc.net.vn)
llllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll

Hồ Con Rùa và giai thoại ‘trấn yểm long mạch’ ở Saigon




Thiết kế chỉ có trụ bêtông lớn cắm xuống hồ nước hình bát quái, Hồ Con Rùa (quận 3) gắn liền với giai thoại trấn yểm long mạch của Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu.

Hồ Con Rùa ở trung tâm TP HCM có tên chính thức là Công trường Quốc tế, là nút giao của các tuyến đường Phạm Ngọc Thạch, Trần Cao Vân và Võ Văn Tần. Xung quanh hồ tập trung rất nhiều nhà hàng, quán bar, cà phê nên khu vực này luôn nhộn nhịp từ sáng đến khuya.
Tượng đài do người Pháp xây dựng đầu thế kỷ 20 ở vị trí Hồ Con Rùa ngày nay. Ảnh tư liệu
Nguyên thủy vị trí Hồ Con Rùa vào năm 1790 là cổng thành Khảm Khuyết của thành Bát Quái (còn gọi là thành Quy) được xây theo lệnh vua Gia Long. Tuy nhiên, sau cuộc nổi loạn của Lê Văn Khôi (1833-1835), vua Minh Mạng đã cho phá thành Bát Quái và xây một ngôi thành nhỏ hơn mang tên là thành Phụng (thành Gia Định). Vị trí cửa Khảm Khuyết trở thành một điểm ở ngoài thành và nối thẳng con đường ngoài mặt tây thành xuống bến sông (đường số 16 – Catinat và bây giờ là Đồng Khởi).
Sau khi chiếm được Saigon năm 1859, người Pháp đã cho phá hủy toàn bộ thành Gia Định. Năm 1878, một tháp nước được xây tại vị trí Hồ Con Rùa ngày nay để phục vụ nhu cầu cung cấp nước uống cho cư dân trong vùng. Đến năm 1921, tháp nước bị phá bỏ và con đường được mở rộng nối dài đến đường Mayer (nay là đường Võ Thị Sáu). Từ đó, vị trí này trở thành giao lộ của các tuyến đường như ngày nay.
Cũng tại vị trí này, người Pháp cho xây một tượng đài ba binh sĩ bằng đồng với hồ nước nhỏ, để đánh dấu cuộc xâm chiếm và biểu tượng của người Pháp làm chủ Đông Dương. Do đó, người dân thường gọi nó là Công trường Ba hình. Các tượng đài này tồn tại đến năm 1956 thì bị Chính quyền Việt Nam Cộng hòa phá bỏ, chỉ còn lại hồ nước nhỏ. Giao lộ cũng được đổi tên thành Công trường Chiến sĩ.
Hồ Con Rùa năm 1972, lúc còn con rùa bằng đồng ở giữa. Ảnh tư liệu
Sau khi người Pháp rút khỏi Việt Nam, địa điểm Công trường Chiến sĩ trở thành vòng xoay giao thông của đường Duy Tân (nay là Phạm Ngọc Thạch) và Trần Quý Cáp (nay là Võ Văn Tần – Trần Cao Vân). Thời điểm xây Hồ Con Rùa chưa được xác định chính xác, song một số tài liệu cho là nó được xây năm 1965-1967. Người thiết kế là kiến trúc sư Nguyễn Kỳ.
Trong những năm 1970 đến 1974, Hồ Con Rùa được chính quyền Việt Nam Cộng Hòa trùng tu và chỉnh trang. Trong đó có việc dựng thêm và điều chỉnh 5 cột bêtông cao có dạng năm bàn tay xòe ra giống như các cánh hoa đón đỡ một nhụy hoa.
Công trình mới này còn bao gồm một vòng xoay giao thông với đường kính khoảng gần 100 mét, được trang trí bởi cây xanh và hồ phun nước hình bát giác lớn với 4 đường đi bộ xoắn ốc đồng hướng đến khu vực trung tâm và hình tượng con rùa bằng hợp kim đội trên lưng bia đá lớn. Do đó, mới có tên gọi dân gian là Hồ Con Rùa.
Ban đầu, khu giao lộ này được đặt tên là Công trường Chiến sĩ Tự do, đến năm 1972 thì đổi tên thành Công trường Quốc tế. Tuy nhiên, đầu năm 1976, tấm bia và con rùa bị phá hủy trong một vụ nổ, dù con rùa không còn nhưng người dân vẫn quen cách gọi cũ thay vì tên chính thức.
Hồ Con Rùa hiện nay. Ảnh: Trung Sơn
Do có kiến trúc khá kỳ lạ, Hồ Con Rùa được gắn với giai thoại trấn yểm long mạch của tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu. Theo lời thuật của tác giả Huỳnh Bá Thành trong cuốn sách Vụ án Hồ Con Rùa (Nhà xuất bản Tuổi Trẻ 1982), có giai thoại truyền miệng kể là vào năm 1967 khi tướng Nguyễn Văn Thiệu lên làm tổng thống Việt Nam Cộng Hòa, đã cho mời một thầy phong thủy người Hoa nổi tiếng đến coi thế đất tại dinh Độc Lập.
Ông thầy phong thủy này khen dinh được xây trên long mạch. Con rồng này có đầu nằm ngay dinh Độc Lập (vì vậy Dinh Độc lập còn có tên gọi là Phủ Đầu Rồng) và đuôi rồng nằm tại vị trí Công trường Chiến sĩ. Tuy phát hưng vượng nhưng do đuôi rồng hay vùng vẫy nên sự nghiệp không bền, cần phải cúng yểm bùa bằng cách đúc một con rùa lớn để trấn đuôi rồng không vùng vẫy, mới giữ được ngôi vị tổng thống lâu dài.
Vì vậy, ông Nguyễn Văn Thiệu đã nghe theo và cho xây dựng một hồ nước có hình bát giác, phỏng theo bát quái trận đồ, một biểu tượng phong thủy thường dùng để trấn yểm của người xưa, và cho đặt một con rùa lớn đúc bằng đồng ngay chính giữa hồ. Cũng vì thế, nhiều người cho rằng kiến trúc tháp cao giống như hình một thanh gươm hoặc một cây đinh khổng lồ đóng xuống hồ nước để giữ chặt đuôi rồng, và khuôn viên hồ nước có hình bát quái, bên giữa có hình âm dương.

Theo Trung Sơn/vnexpress.net 
llllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll

Công trường Quách Thị Trang: Tình cũ làm sao quên

Sau Thương xá Tax, đến cầu Nhị Thiên Đường rồi bây giờ là Công Trường Quách Thị Trang sẽ không còn nữa. Có lẽ đã là người Saigon chắc không ai không có một chút ngậm ngùi trước những cuộc chia ly như thế.

Tôi có thói quen đi làm từ rất sớm để nhìn Saigon tinh mơ vắng vẻ, thoáng đảng và yên bình. Bởi vì đó mới chính là Saigon của tôi, của những người Saigon mà giọt máu từ cuống nhau thai đã hòa tan vào mảnh đất này.
Tuột xuống xe buýt, công việc đầu tiên của tôi là nhìn về phía cái vòng xoay (đơn giản là để canh xe đặng băng qua đường). Nói vậy cho vui, cho bớt nỗi niềm trước một cuộc chia ly.
Cái vòng xoay (chứ không phải vòng xuyến) ấy cho đến hôm nay có thể được xem như  địa chỉ cuối cùng còn giữ được cái nét rất riêng của Saigon mà tôi đoan chắc rằng không  có người Saigon nào không  đặt chân hoặc ít nhất là một lần đi ngang qua nơi đây.
Trong ký ức tuổi thơ của nhiều người, đây còn là điểm dạo chơi  vào dip Tết, ngày lễ hay đơn giản chỉ là để ngồi đó, ngắm người ta qua lại, ngắm những con đường hun hút bóng cây, những tòa nhà  xưa cũ mang đậm dấu ấn của một dòng kiến trúc phương Tây.
Còn trong ký ức tuổi thơ tôi thì khoảng không gian dưới chân tượng đài Trần Nguyên Hãn và tấm thảm hoa rực rỡ  kia luôn luôn trỗi dậy mỗi khi qua đây.
Cũng giống như rất nhiều tượng đài được đặt giữa các vòng xoay ở Saigon dùng để tôn vinh các vị anh hùng dân tộc nhưng tượng đài Trần Nguyên Hãn uy nghi lẫm liệt, trên tay cầm con chim bồ câu, mặc  áo giáp sắt phi ngựa giữa sa trường với tôi còn có một tình cảm đặc biệt.
Hồi đó, ba tôi vốn là một chiến sĩ thuộc binh chủng Truyền tin. Nhiều lần, ba đã kể cho tôi nghe chuyện về ông Trần Nguyên Hãn được lấy làm thủy tổ của binh chủng Truyền tin. Ba kể chuyện ông bị quân Minh vây hãm tại thành Võ Ninh. Nhờ có con chim bồ câu mang thư cầu cứu đến Bình Định Vương Lê Lợi mà ông và binh lính được quân tiếp viện đến phá vỡ vòng vây giải cứu.  Mặc dù chi tiết này tôi đã được học trong môn Lịch sử ở nhà trường nhưng tôi vẫn thích thú, say sưa ngồi nghe ba kể.
Cuối năm 2014, trong khi  tượng đài Trần Nguyên Hãn được đưa về công viên Phú Lâm, thì pho tượng nữ liệt sĩ Quách Thị Trang được chuyển về công viên Bách Tùng Diệp.
Khi đó cơ quan tôi nằm kề sát bên Bách Tùng Diệp, mỗi ngà y qua đây cà phê, nhìn bức tượng bán thân nằm trong một góc công viên giữa hanh hao nắng gió, tôi vẫn hay nghĩ về thân phận, về lòng bao dung. Lẩn thẩn mà rằng nhờ có lòng bao dung của người Saigon, bức tượng mới được tạc nên. Và không biết ở thiên đường (tôi tin những người còn trinh trắng sẽ được lên thiên đường), chị sẽ nghĩ gì về thân phận của một tượng đá.
Saigon mất đi tượng đài Trần Nguyên Hãn, mất đi tượng Quách Thị Trang là mỗi người Saigon như mất đi một phần đời, một hình ảnh đầy ắp kỷ niệm, khiến cho hàng triệu con tim người Saigon thổn thức, huống hồ nay cả một cái công trường Quách Thị Trang  – cái bùng binh Saigon – cái vòng xoay Bến Thành – cũng phút chốt mà biến mất.








Từ cuối năm 2014, tượng Quách Thị Trang được dời về công viên Bách tùng Diệp
Trước một cuộc chia ly, người ta thường tự an ủi mình: Đó là quy luật cuộc sống. Thôi thì cứ xem như đây là qui luật khắc nghiệt của sự phát triển. Hãy nhìn về viễn cảnh một bộ mặt Saigon đổi mới với một nhà ga ngầm hiện đại để nguôi ngoai.
Cuối cùng, cũng giống  như mọi khi, tôi thường hay mượn lời một ai đó để kết thúc câu chuyện của mình vì tôi chỉ giỏi lan man dây cà dây muống. Lần này tôi xin mượn câu nói của một đồng nghiệp để nói lên nỗi lòng của người Saigon với công viên Quách Thị Trang: “Tình cũ – làm sao quên”? Ừ! Tình cũ làm sao quên. Mà người Saigon thì nhiều tình cũ lắm.
NGÔ THỊ THU VÂN/ 2Saigon
llllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll

lllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll
8 công trình đầu tiên của Saigon xưa

Khách sạn Continental, nhà hát Thành phố, Bệnh viện Chợ Quán, Bưu điện trung tâm là những công trình đầu tiên được xây tại vùng đất Saigon Gia Định với lịch sử hơn 300 năm.

Nhà hát
Được khởi công năm 1898 và hoàn thành năm 1900, Nhà hát Thành phố mang kiến trúc Tây Âu. Các phù điêu bên trong được họa sĩ tên tuổi người Pháp vẽ giống như mẫu của các nhà hát Pháp cuối thế kỷ XIX.
Nhà hát là nơi trình diễn ca nhạc kịch cho Pháp kiều xem. Năm 1956, nơi đây được dùng làm trụ sở Hạ nghị viện của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa. Đến tháng 5/1975, trở thành nhà hát thành phố đến nay.
Nằm tại Saigon, nhà hát đa năng, là nơi biểu diễn sân khấu nghệ thuật và được sử dụng để tổ chức những sự kiện lớn.




Nhà hát Thành phố năm 1908. Ảnh tư liệu.
Khách sạn
Continental là khách sạn có lịch sử lâu đời và nổi tiếng nhất thành phố. Tọa lạc trên đường Đồng Khởi – kéo dài từ bờ sông Saigon đến Nhà thờ Đức Bà. Đây cũng là con đường sầm uất bậc nhất thời bấy giờ, có rất đông người Pháp cư ngụ.
Khách sạn này được ông Pierre Cazeau – nhà sản xuất vật liệu xây dựng và đồ gia dụng – khởi công năm 1878 và hoàn thành sau 2 năm. Kiến trúc, nội thất cũng như cách bài trí đều theo tiêu chuẩn của một khách sạn hạng sang tại Paris. Đây là nơi dừng chân của các viên chức, sĩ quan cao cấp của Pháp đến công tác và là chỗ tụ hội của du khách thập phương.
Sau ngày 30/4/1975, nơi đây được đổi tên thành Hải Âu. Đến năm 1989, công trình được tu sửa và lấy lại tên cũ Continental, rộng hơn 3.400 m2, cao 3 tầng. Khách sạn từng đón tiếp các vị tổng thống, thống đốc, nhà văn, người mẫu nổi tiếng thế giới.
Hiện nay, Continental là một trong những khách sạn đạt tiêu chuẩn quốc tế, góp phần phát triển ngành du lịch TP. HCM.




Continental – Khách sạn đầu tiên ở Saigon. Ảnh tư liệu.
Bệnh viện 
Năm 1862, Bệnh viện Chợ Quán được một số nhà hảo tâm đóng góp xây dựng và quản lý. Toạ lạc trên khu đất rộng gần 5 ha tại làng Chợ Quán nằm giữa Saigon – Chợ Lớn, phía trước bệnh viện là sông Bến Nghé (nay gọi là kênh Tàu Hủ) chảy qua. Năm 1864, công trình được giao lại cho chính quyền thời bấy giờ quản lý.
Từ 1954 đến 1957, 2/3 cơ sở bệnh viện được sử dụng làm nơi điều trị bệnh lao cho binh lính và đổi tên thành Viện Bài Lao Ngô Quyền. Cuối năm 1957, bệnh viện được trả về cho dân sự, lấy lại tên ban đầu là Bệnh viện Chợ Quán.
Tháng 3/1974 bệnh viện mang tên mới là Trung tâm Y Khoa Hàn – Việt. Sau ngày 30/4/1975 nó được gọi bằng tên cũ. Đến ngày 5/9/1989, UBND TP HCM đổi thành Bệnh viện Bệnh nhiệt đới, trực thuộc Sở Y tế đến nay.



Bệnh viện Chợ quán thuở ban đầu. Ảnh tư liệu.
Bưu điện
Ngay sau khi chiếm được Saigon, Pháp đã thiết lập hệ thống thông tin liên lạc. Năm 1860, “Sở dây thép” Saigon (tức Bưu điện Saigon) được thành lập.
Ngày 13/1/1863, Sở dây thép Saigon chính thức khánh thành và phát hành “con cò” (cách gọi con tem của người bản địa) đầu tiên. Một năm sau, người Saigon bắt đầu gửi thư qua nhà “dây thép” (hệ thống bưu điện).
Năm 1886-1891, Bưu điện SSaigon được xây lại hiện đại, thay thế cho trụ sở và khu nhà ở cũ theo đề án của kiến trúc sư người Pháp là Villedieu cùng phụ tá Foulhoux. 
Từ ngày 1/7/1894 Saigon bắt đầu sử dụng hệ thống điện thoại.
Đây là công trình kiến trúc mang phong cách châu Âu kết hợp với nét trang trí châu Á. Phía trước ngôi nhà trang trí theo từng ô hình chữ nhật, trên đó ghi danh những nhà phát minh ra ngành điện tín và ngành điện.



Bưu điện trung tâm Saigon vào năm 1895. Ảnh tư liệu
Nhà thờ
Nhà thờ Chợ Quán (20 Trần Bình Trọng, quận 5) xây lần đầu vào năm 1700 – được xem là nhà thờ có lịch sử lâu đời nhất tại Saigon.
Theo học giả Trương Vĩnh Ký (1837-1898), Họ Đạo Chợ Quán gắn liền với quá trình mở rộng lãnh thổ về phía Nam của đất nước. Trong số di dân vào Nam đã có những giáo dân theo đạo Thiên Chúa. Họ tập hợp, tổ chức nhà nguyện và sau này là nhà thờ Chợ Quán.
Thánh đường Chợ Quán ban đầu chỉ là ngôi nhà thờ đơn sơ. Sau nhiều lần xây dựng rồi bị tàn phá vì thời cuộc (1720, 1727, 1733, 1775, 1789,1793).
Mãi đến năm 1882 (lần thứ 8), cha Nicolas Hamm về kế nhiệm đã đặt nền móng cho ngôi nhà thờ mới (nhà thờ tồn tại đến ngày nay).
Thánh đường được khánh thành năm 1896 nằm ở vị trí trung tâm, có kiến trúc phương Tây, lợp ngói đỏ, có thể chứa khoảng 1.000 người.




Nhà thờ Chợ Quán năm 1904.
Đình
Xây dựng khoảng năm 1679, Thông Tây Hội được xem là ngôi đình cổ nhất của đất Gia Định xưa và cả Nam Bộ. Hiện, nó còn khá nguyên vẹn về quy mô và kiến trúc, kết cấu với những chạm khắc đặc trưng Nam bộ.
Đình lúc đầu là của thôn Hạnh Thông – thôn khởi nguyên của Gò Vấp – sau đổi thành Thông Tây Hội (do sự sáp nhập của thôn Hạnh Thông Tây (thôn Mới) và thôn An Hội. Đình Thông Tây Hội hiện nằm trên địa bàn phường 11, quận Gò Vấp
Đình Thông Tây Hội có vị Thành Hoàng rất độc đáo. Hai vị thần thờ ở đình là hai hoàng tử con vua Lý Thái Tổ, do tranh ngôi với thái tử Vũ Đức nên bị đày đi khai hoang ở vùng cực Nam tổ quốc và trở thành “Thủy tổ khai hoang” trong lịch sử Việt Nam; hai vị thần đó là: Đông Chinh Vương và Dục Thánh Vương.



Đình Thông Tây Hội ngày nay. Ảnh: Wikipedia.
Chùa
Huê Nghiêm tọa lạc ở đường Đặng Văn Bi (quận Thủ Đức), được xem là ngôi chùa cổ nhất ở TP HCM.
Ngày nay, chùa thường được gọi là Huê Nghiêm 1 để phân biệt với chùa Huê Nghiêm 2 ở quận 2.
Chùa được Thiền sư Thiệt Thụy – Tánh Tường (1681 -1757) khai sơn vào thế kỷ XVIII. Nhiều tư liệu xác định năm thành lập là 1721.




Chùa Huê Nghiêm ở quận Thủ Đức được xem là ngôi chùa cổ nhất tại TP HCM. Ảnh: PGVN.
Lúc đầu, chùa được xây ở vùng đất thấp, cách chùa hiện hữu khoảng 100 m. Sau đó, bà Nguyễn Thị Hiên (1763-1821) pháp danh Liễu Đạo, tự Thành Tâm, đã hiến đất để xây lại.
Ngôi chùa được trùng tu nhiều lần, lớn nhất là vào cuối thế kỷ XIX do Thiền sư Đạt Lý – Huệ Lưu tổ chức.
Kiến trúc của nó được thay đổi ở những lần trùng tu năm 1960, 1969, 1990 và 2003 với mái ngói chồng diêm, các đầu đao cong vút. Bờ nóc mái trang trí những hoa sen cách điệu. Khuôn viên chùa khá rộng, có nhiều tháp cổ. Tam quan chùa và đài Quan Âm ở sân trước chùa được xây vào năm 1990.
Cầu
Là một trong những cây cầu cổ xưa nhất còn sót lại ở Saigon, cầu Mống bắc qua kênh Tàu Hủ – Bến Nghé, nối quận 1 và quận 4 (đất Khánh Hội xưa).
Cầu mang đậm nét phương Tây, do công ty vận chuyển hàng hải Pháp Messageries Maritimes đầu tư và công ty Levallois Perret (tức Eiffel cũ) thi công vào năm 1893-1894.



Cầu Mống là một trong những cây cầu đầu tiên được xây dựng tại vùng đất Saigon – Gia Định. Ảnh tư liệu
Dài 128m, rộng 5,2m, cầu có lề bộ hành rộng 0,5m và được xây bằng thép kiên cố. Thành cầu uốn cong có những khoảng trống, sơn xanh (ban đầu cầu có nước sơn màu đen). Hình dáng vòng cung giống cầu vồng nên người dân gọi tên là cầu Mống.
Trong giai đoạn thi công Đại lộ Đông – Tây và Đường hầm sông Saigon, cầu được tháo dỡ hoàn toàn, sau khi công trình này hoàn tất thì nó được lắp ghép lại theo nguyên bản và gia cố thêm phần trụ móng kèm trang bị chiếu sáng mỹ thuật.
Hiện nay, cây cầu hơn 100 tuổi đã được khôi phục dành cho người đi bộ – là nơi chụp ảnh cưới, ngắm cảnh về đêm, đứng xem pháo hoa mỗi dịp lễ, tết của người dân Saigon.
Theo vnexpress
llllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll