TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)

TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)
TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)

Sunday 1 January 2012

*** NỤ CƯỜI BẤT DIỆT (HT Thích Thanh Từ)


(HT.Thích Thanh Từ)

Trong thời gian yên tu, một hôm bỗng dưng chúng tôi cảm thông được nụ cười nhẹ nhàng hiện trên môi tượng đức Phật và nụ cười của các Thiền Sư khi giã từ cuộc đời. Tại sao bài thuyết pháp đầu tiên của đức Phật tại Lộc Uyển đề cập trước nhất là khổ đế, cho đến nhiều bài thuyết pháp sau này, đức Phật cũng thường nhắc đến nỗi khổ của chúng sinh bằng những câu "nước mắt chúng sinh nhiều hơn nước biển cả", mà trên gương mặt Ngài luôn nở nụ cười. 

**Vô minh là cội nguồn của muôn kiếp khổ đau
Con người có mặt trên cõi đời này do vô minh chủ động, nên khi ra đời đã mang sẵn chất keo đau khổ. Vô minh là gì mà đày đoạ con người lắm thế.? Vô minh là nhận hiểu sai lầm về con người và muôn vật. Về con người, thân này là cái không thể giữ mà cố giữ, cái sắp bại hoại mà muốn không bại hoại, cái tạm bợ mà tưởng lâu dài, cái nhơ nhớp mà tưởng đẹp đẽ; các cảm giác là hư ảo mà tưởng chân thật, cảm giác là vô thường mà tưởng lâu dài, cảm giác là là đau khổ mà tưởng hạnh phúc; nội tâm vọng tưởng là ảo ảnh mà chấp là tâm mình, chân tâm bất biến thì lơ là không biết đến.

Và muôn vật, những sắc hình hào nhoáng, những âm thinh sanh diệt, những hương vị tạm bợ mà mê say đắm đuối, khao khát thèm thuồng đuổi bắt suốt đời không biết mệt mỏi. Từ những nhận hiểu sai lầm này, con người không bao giờ toại nguyện, không bao giờ được như ý, không bao giờ thấy hạnh phúc; mà luôn luôn thấy bất mãn, bất như ý, bất hạnh...là nguồn gốc khổ đau. Cái nhận biết sai lầm này gắn chặt vào chúng ta từ đòi này sang kiếp nọ, mãi mãi không rời, cho nên khổ đau do nó gây ra không biết lấy đâu làm ngằn mé, chỉ còn cách diễn tả "nước mắt chúng sanh nhiều hơn nước biển cả". 
Mặc dù vô minh hiểm nguy như thế, song một phen giác ngộ chúng đều tiêu tan. Như ngôi nhà tối ngàn năm chỉ còn thắp ngọn đèn sáng lên thì bóng tối tan mất. Cái mê lầm u tối tạo thành muôn ngàn sợi dây nghiệp khổ; trói buộc lôi kéo con người lăn lộn trong vạn nẻo luân hồi, tưởng chừng như không có cách gì thoát khỏi, đâu ngờ ngọn đèn giác ngộ vừa bừng sáng lên, chúng liền lui mất không còn tung tích. Thấy được việc này, đức Phật không nở nụ cười an lành sao được. 

Chúng sinh si mê tranh dành sắc, tài, danh, lợi, đấm đá nhau, sát phạt nhau, lừa đảo nhau, hận thù nhau ... biến cảnh nhân gian thành bãi chiến trường. Kẻ thắng thì được hoan hô thăng thưởng, được vật chất dẫy đầy; người bại thì bị khinh miệt chê đè, bị thân tàn nghèo đói. Một bên hạnh phúc, một bên khổ đau hiện bày trước mắt mọi người. Vì thế, bất cứ ai có mặt trên trần gian đều sẵn sàng cầm kiếm xông vào trận mạc để mong dành phần thắng về mình. Nhưng nơi chiến trường đâu phải ai cũng là kẻ thắng.
Có người thắng là có kẻ bại, có hạnh phúc là có khổ đau. Ðôi khi kẻ bại phải tan thân mất mạng đã đành, mà người thắng cũng thương tích đầy mình. Hạnh phúc rất ít mà khổ đau quá nhiều. Mặc dầu là thế, ở đời có ai chịu nhường bước cho ai. Nhũng chiếc xe tranh nhau qua mặt gây tại nạn, hàng ngày xảy ra nhan nhản trước mắt, mà các chú tài xế ít khi chịu nhường tránh nhau để mình và người được an toàn. Tranh đấu đã trở thành qui luật của con người. Song kẻ thắng người bại kết cuộc sẽ thành cái gì ? - Một nấm mồ hay một nhúm tro tàn! 
Ðời người là diễn viên đang diễn xuất những vở bi hài kịch trên sân khấu của kịch trường. Dù đóng vai người tài danh lỗi lạc hay đóng vai kẻ ăn mày cùng khổ ở xó chợ đầu đường, khi hạ màn kết thúc đều không. Trong lúc giả trang tạm thời ấy, mọi sự được mất thành bại ... đều là trò chơi. Người diễn viên thông minh đóng kịch, dù bi kịch hay hài kịch, khi sân khấu buông màn liền nở nụ cười, đây là trò đùa trên sân khấu, không có một chút hối tiếc hay lo buồn. Ðúc Phật đã giác ngộ viên mãn, thấy rõ cuộc đời ảo hóa, khi từ giã cuộc đời tự nhiên ngài hé môi cười nhẹ. 
**Những thứ suy tư nghĩ tưởng trong nội tâm, mỗi con người chúng ta đều thừa nhận là tâm của mình, hoặc nhận là mình. Tôi suy tư thế này, tôi nghĩ tưởng thế kia, hoặc tôi nghĩ tôi tưởng. Do thừa nhận chúng là mình, nên chúng ra oai tác quái tạo đủ thứ nghiệp, cột trói lôi kéo mình lăn tròn trong lục đạo không có ngày thoát khỏi. Hằng ngày các thứ ấy lăng xăng lộn xộn bủa vây che đậy trong nội tâm chúng ta không một chút giây an ổn. Có khi chúng nó ồn ào náo loạn khiến đầu óc ta nóng rực bất an, cố van xin chúng cho cho ta được vài phút an lành, nhưng chúng nó nào có chịu tha, cứ tha hồ quậy, buộc lòng ta phải dùng thuốc an thần để chống cự.
Thậm chí những nhà tu hành cũng bực bội sự náo loạn của chúng, phải chạy tìm "pháp an tâm". Có vị sợ sự trói buộc vô hạn định của chúng, phải đi cầu xin "pháp giải thoát". Gặp bậc thầy cỡ lớn, nhà tu hành liền đem ra hỏi "pháp an tâm". Ông thầy nghiêm nghị bảo "đem tâm ra ta an cho". Nhà tu hành sửng sốt phản quang soi lại thì bọn giặc ồn ào đã biến đâu mất, đành thưa "con tìm tâm không được". Bậc thầy nhếch mép cười bảo "ta đã an tâm cho ngươi rồi. Nhà tu hành bỗng dưng thấy bọn giặc ấy là một đám khói mây. Nhà tu hành khác thao thức lo sợ sự trói buộc của đám phiền não này đi cầu thầy dạy "pháp giải thoát". Ông thầy cỡ lớn chỉ hỏi "ai trói buộc ông?". Nhà tu hành tìm lại không thấy có gì trói buộc, liền thưa "không có ai trói buộc". Ông thầy cả cười bảo "cầu giải thoát làm gì ?" Nhà tu hành bỗng dưng thấy trăm dây ngàn mối trước kia nhất thời đã biến đâu mất. 
Khi thấy tột bản chất ảo hóa của các thứ tâm lăng xăng lộn xộn này, đức Phật chỉ có cười với chúng mà thôi! Nếu ai còn lầm nhận chúng là mình thì bị chúng ra oai tác quái, trái lại người biết rõ bản chất hư ảo của chúng thì không bị chúng lừa gạt và khả năng lôi kéo của chúng cũng bị hạn chế. Thấy rõ các thứ tâm hư ảo rồi, đức Phật còn nhận ra tâm thể chân thật nơi mỗi con người là thênh thang trùm khắp, chưa bao giờ bị sinh diệt vô thường. Xả bỏ thân khổ đau nhớp nhúa, tạm bợ, thể nhập pháp thân thanh tịnh bất sanh bất diệt (niết bàn), nhẹ nhàng an lạc biết mấy, thì đức Phật làm sao chẳng hé nở nụ cười an lành thanh thản. Không những Phật mà các Thiền sư đệ tử Phật khi từ giã cuộc đời cũng cười. Tôn giả Pháp Loa khi sắp tịch diệt để kệ:  


Dịch âm: 

Vạn duyên tài đoạn nhất thân nhàn 
Tứ thập dư niên mộng huyễn gian 
Trân trọng chư nhân hưu tá vấn 
Na biên phong huyệt cách man khoan 
Dịch nghĩa: 

Muôn duyên cắt đứt một thân nhàn 
Hơn bốn mươi năm giấc mộng tràng 
Nhắn bảo mọi người thôi chớ hỏi 
Bên kia trăng gió rộng thênh thang 


Ðeo mang thân này là đeo mang gông cùm, bệnh tật, bại hoại, khổ đau, buông xả được nó thì nhẹ nhàng thảnh thơi an lạc. Xả bỏ thân này đâu phải là hết, mà còn bầu trời mênh mông có trăng trong gió mát, còn gì thích thú bằng, nên Thiền sư cười.

HT.Thích Thanh Từ


Hoà hợp chúng Tăng Già thanh tịnh
 
Ðức vô song tứ thánh sa môn
 
Thừa hành di giáo Thế Tôn

Ðời đời tương tục bốn phương phổ hoằng

Từ quá khứ vô vàn Tăng Chúng


ở tương lai vô lượng thánh hiền
 
Hiện tiền Tăng Bảo phước điền
 
Con xin kính lễ gieo duyên Niết bàn.

Bậc diệu hạnh thinh văn Thích Tử

Bậc trực hạnh pháp lữ thiền gia
Bậc như lý hạnh Tăng Già 

Bậc chơn chánh hạnh dưới toà Thế Tôn

Thành đạo quả bốn đôi tám chúng

Ðệ tử Phật ứng cúng tôn nghiêm

Cung nghinh kính lễ một niềm

Thánh chúng vô thượng phước điền thế gian.
Tăng là nơi nương nhờ tối thượng

Cho chúng con vô lượng an lành
 
Qui y Tăng Bảo tịnh thanh

Nguyện lời chân thật tác thành thắng duyên.[10]