TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)

TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)
TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)

Sunday 1 April 2012

***Giúp vợ thoát khỏi mê tín dị đoan


TT THÍCH NHẬT TỪ
Hỏi:
Vợ chồng con lấy nhau đưọc 10 năm nay, đã có hai cháu, một lên 8, một lên 5. Con là kỹ sư tin học, vợ con là giáo viên. Cuộc sống gia đình không khá giả, chỉ đủ sống và luôn đầm ấm. Song nửa năm trở lại đây, vợ con nghe theo chúng bạn đi cúng lễ ở khắp nơi, tiêu tốn hàng chục triệu đồng cho việc lễ bái. Con đã khuyên can nhiều lần nhưng cô ấy không nghe, tồi tệ hơn nữa là giờ cô ấy một mực yêu cầu con phải đi dự lễ cùng cô ấy.

Con không đi viện cớ là bận việc công ty, cô ấy đi tối ngày, con phải ở nhà chăm sóc hai cháu, cô ấy không chịu, dọa nếu không theo cô ấy thì gia đình sẽ tan nát, có người chết sớm. Tuần trước, con và cháu bé thứ hai bị sốt siêu vi trùng, cô ấy không những không ở nhà chăm sóc mà còn trách cứ con, tại con không chịu đi lễ nên “bề trên” phạt cho ốm, nếu không chịu thay đổi sẽ còn ốm nữa. Trời ơi, con không nhận ra vợ con nữa rồi, một cô giáo hiền hòa, mẫu mực giờ thành ra người mê tín dị đoan, cuồng tín đến mù quáng. Con phải làm gì để “đánh thức” vợ con, thưa Thầy? Liệu con có thể giúp cô ấy tỉnh ra được không?
 (Trần Đức Quang, Bắc Ninh)
Trả lời:
Đọc thư của anh, tôi thông cảm nỗi khổ tâm và những xáo trộn hạnh phúc gia đình do vợ anh quá mê tín dị đoan gây ra. Mê tín làm cho con người trở nên sợ hãi, yếu đuối, lệ thuộc tâm lý, làm và nói những chuyện gàn dỡ. Để giúp vợ thoát khỏi mây mù mê tín, anh tham khảo và thử nghiệm các “liều thuốc” sau đây:
**Nhận diện tác hại của mê tín**

Việt Nam hiện nay có khoảng 8.000 lễ hội lớn nhỏ. Lễ thường gắn với niềm tin và tín ngưỡng. Hội là hội hè vui chơi, biểu diễn và thưởng thức nghệ thuật. Có những lễ hội mang tính văn hóa và giá trị đẹp, cần được duy trì và phát huy. Có những lễ hội chỉ là những hủ tục, mê tín dị đoan với nhiều tác hại. Các lễ hội văn hóa tích cực có khả năng chuyển tải thiêng liêng, đạo đức và hiền thiện. Mê tín núp bóng lễ hội văn hóa thường mang lại nhiều tổn thất và bất an cho người tin nó mà không đặt vấn đề.
Mê tín có từ ngàn xưa, từ lúc con người cảm thấy bất lực trước sức tàn phá của thiên tai mà không sao giải thích được. Văn hóa Phật giáo không có chỗ cho những hành vi mê tín, dị đoan và hiện tượng trục lợi “buôn Thần bán Thánh” để lừa bịp những người nhẹ dạ, cả tin. Tín ngưỡng thiếu lý trí sẽ nhuốm màu thần bí và trở thành mê tín. Tác hại của mê tín không chỉ ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý và thái độ ứng xử, mà còn phương hại cho lối sống và kinh tế gia đình. Điều này hoàn toàn đúng với trường hợp của vợ anh, một cô giáo nhẹ dạ đáng tội nghiệp.
Dị đoan là những điều quái lạ, huyễn hoặc, chỉ tồn tại trong niềm tin thiếu lý trí của con người. Mê tín là niềm tin mù quáng, không phân biệt đúng sai, nhắm mắt làm càng, thể hiện sự mê muội và mất lý trí. Mê tín và dị đoan là cặp song sinh. Nơi nào có dị đoan, nơi đó có mê tín. Ai sống với mê tín, người đó chấp nhận các dị đoan. Di đoan là mê tín. Mê tín thường kéo theo dị đoan.
Đằng sau các dị đoan và mê tín là nỗi sợ hãi về những điều bất hạnh bao gồm cái chết, bệnh tật, tổn thất, bất hạnh và nghịch cảnh. Nỗi sợ hãi là thực phẩm thầm lặng nuôi sống mê tín. Những kẻ truyền bá mê tín thường khai thác tâm lý sợ hãi của tín chủ để lợi dụng, từ đó, tạo ra tình trạng tiền mất tật mang. Có một số người truyền bá mê tín không vì mục đích lợi nhuận hay lừa đảo, mà chỉ để làm cho mình được nổi tiếng (dĩ nhiên chỉ là hư danh).
Việc cho vợ anh uống “liều thuốc” kiến thức về nguồn gốc của mê tín, nguyên nhân sống còn của niềm tin sai lầm này, các hậu quả mà người dị đoan phải gánh chịu… sẽ góp phần giúp cho chị ấy “tỉnh ra” vấn đề để dừng lại các thái độ và hành động sai lầm trước khi quá muộn. Dĩ nhiên, để thành công, anh phải hết sức khéo léo, điềm tĩnh, kiên nhẫn, tránh gây gỗ với vợ vì như thế có thể làm hỏng mọi thứ.
**Thần linh không hại được con người**
Phật giáo không chấp nhận thần linh trong tín ngưỡng dân gian có khả năng ban phước giáng họa. Ngay cả thượng đế, Phật giáo nguyên chất còn cho rằng chưa từng hiện hữu, do con người mê tín nắn tạo ra, huống hồ, thần linh lấy đâu mà ra năng lực siêu nhiên để phạt kẻ này, hại kẻ nọ như thể thế giới này không có luật pháp vậy.
Thượng đế và thần linh nếu có cũng phải sống trong quy luật nhân quả, làm xấu sẽ bị khổ đau như bóng không rời hình, âm vang không tách rời khỏi tiếng. Các thần không phải là cáng cân của luật pháp, do đó, nếu các thần linh ức hiếp con người, các thần sẽ bị nhân quả nghiêm trị. Rất may là trên thực tế con người mượn hình ảnh thần linh để hù dọa lẫn nhau, chứ chưa có thần linh “bề trên” nào đã hại con người như thế.
Các tôn giáo nhất thần và đa thần thường vẽ vời ra năng lực “hủy diệt” cho “bề trên” (thượng đế và các thần), để dọa nạt người không mê tín vào thần, để rồi từ nỗi sợ hãi và tuyệt vọng, chăn dắt họ quay niềm tin vào lực lượng siêu nhiên vốn không có thật.
(Người mẹ đang cho trẻ uống nước thánh trị bịnh)
Trong xã hội tiến hóa của loài người, cha mẹ dù sinh ra con cái nhưng hủy hoại mạng sống của con cái là đã mang tội giết người, nên sẽ bị luật pháp trừng phạt. Làm cha mẹ sinh ra con, có ai bất nhẫn, bất nhân đến độ giết đi mạng sống của con ruột mình?! Tội giết con được xem là tội bất nhân, luật pháp không thể dung tha. Nếu các đấng “bề trên” viện cớ sinh ra con người nên có quyền hủy diệt con người thì thần linh đó thật ác đức, không đáng để con người tôn trọng và kính nễ. Nếu các đấng “bề trên” nhiễu nhương và phá hoại cuộc đời và hạnh phúc của con người thì con người cần dấy cuộc thánh chiến chống lại bề trên, để giải phóng nhân loại khỏi ách thống trị bạo ác của bề trên.
Trên thực tế, các đấng bề trên chưa từng hiện hữu. Việc kể công hay gán tội cho họ đều không thích hợp. Do đó, thay vì đi cúng lễ theo nghĩa “hối lộ” các đấng bề trên (vừa tốn tiền vừa sợ hãi) thì theo Phật giáo, ta hãy phân tích các nguyên nhân và điều kiện thuận nghịch để khắc phục những khó khăn và bất hạnh trong cuộc sống.Truy tìm nguyên nhân của các bất hạnh là giải quyết bất hạnh được phân nửa. Phân nửa còn lại là giải pháp đúng, con đường trị liệu đúng. Ai nỗ lực tự thân với sự dẫn dắt của trí tuệ như vừa nêu sẽ có khả năng giải quyết dứt điểm các bất hạnh và khổ đau đã, đang hoặc sẽ diễn ra.
**Lấy huyễn độ huyễn**
Việc khai mở kiến thức đúng về tác hại của mê tín để người mê tín từ bỏ các niềm tin sai lầm, không phải lúc nào cũng thành công, khi mà anh đã rơi vào tình thế “Bụt nhà không thiêng” đối với vợ. Dưới mắt vợ anh, anh chỉ là một kẻ phàm tục và dĩ nhiên sẽ không thể hiểu biết hết về thế giới siêu nhiên mà cô ta đang bị kẻ chủ trương mê tín dẫn dắt. Lối suy nghĩ tiêu cực này có thể có của vợ anh đôi lúc làm cho anh dễ cáu giận. Nhưng đừng vì thế buông xuôi mọi việc, để cho mê tín dẫn dắt cuộc sống của gia đình anh.
Do đó, nếu giải pháp “đánh thức” không thành công, anh có thể áp dụng công thức “dĩ huyễn độ huyễn” được Phật giảng dạy trong Kinh. Tức tạm thời, anh cứ đóng vai diễn là người có niềm tin như vợ anh, để vợ anh nghĩ rằng chị và anh là người đồng hội, đồng thuyền. Sau đó, anh có thể phối hợp với một vị trụ trì có kinh nghiệm ở ngôi chùa cùng thành phố anh chị đang sống, nói rõ về các mê tín mà vợ anh đang dính vào, để nhờ trợ giúp tích cực. Sắp xếp một cuộc gặp gỡ giữa hai vợ chồng anh với nhà chùa trong một ngày thuận lợi cho cả hai bên.
Anh nên cung cấp vài thông tin về cá tính của vợ, cảnh huống của gia đình để nhà chùa nắm vững trước khi gặp nhau. Trong cuộc trò chuyện, vị trụ trì có thể nói như đinh đóng cột về cảnh huống gia đình và cá tính của vợ, làm chị sinh tâm bội phục. Phụ nữ thường có tâm lý nể phục những ai nói đúng về họ và gia đình họ. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến niềm tin quàng xiêng, mù quáng. Biến điều này thành một lợi thế để anh phối hợp với nhà chùa làm công việc “tương kế tựu kế.” Đến lúc vợ anh có niềm tin mạnh về năng lực đặc biệt của nhà chùa, việc nhà chùa góp ý những điều chị ấy đang quan tâm mới có kết quả, ít nhất là tác dụng tâm lý dẫn đến niềm tin vào lời khuyên.


Theo Phật giáo, việc “cúng lễ ở khắp nơi, tiêu tốn hàng chục triệu đồng” không phải là giải pháp cho các vấn nạn gia đình và xã hội mà con người có thể gặp trong cuộc sống. Cũng cùng một vấn đề, thay vì các thầy pháp, thầy phong thủy, thầy địa lý, thầy bùa ngải, thầy đồng bóng “dọa” không cúng lễ thì “gia đình sẽ tan nát, sẽ có người chết sớm” thì vị trụ trì có thể giải thích “đức năng thắng số” tức không có số phận thật để mặc cảm, sợ hãi và lo lắng, sau đó tư vấn các giải pháp thích hợp theo tinh thần sống với nhân quả, giải quyết vấn đề bằng trí tuệ. Nhà chùa có thể tổ chức một khóa lễ cầu an vừa không tốn tiền vừa có khả năng xoa dịu và trấn an các nỗi đau và bất hạnh của gia đình. Nỗi sợ hãi “không chịu đi lễ nên bị bề trên phạt cho ốm” sẽ được thay thế bằng niềm vui được Phật pháp gia hộ, mang hạnh phúc và an vui về cho gia đình.
Cần thấy rõ, sự thành công của phương pháp này lệ thuộc vào khả năng phối hợp giữa anh với nhà chùa. Phương pháp hợp tác này có khả năng giúp vợ anh thoát khỏi cái “khổ do mê tín dị đoan, cuồng tín đến mù quáng” gây ra.
Chúc anh sớm thành công trong việc giúp vợ “tỉnh ra” sự mê tín của mình, hầu xây dựng lại niềm tin chân chính và hạnh phúc gia đình như trước đây.

Không hạnh phúc nào hơn an tịnh tâm

Mục đích cứu kính của đạo Phật là giúp đỡ con người giải thoát khỏi phiền não và khổ đau, xây dựng cuộc sống an lạc và hạnh phúc ngay hiện đời.  Muốn đạt được điều đó, chúng ta phải hàng phục tâm của mình và an trụ tâm của mình, phải nương nhờ chánh pháp, học hiểu giáo lý và đem thực hành, áp dụng vào trong cuộc sống hằng ngày.

Chư Phật và chư Tổ giảng giải tam tạng kinh điển cũng nhằm mục đích này mà thôi.  Chánh pháp được ví như chiếc thuyền, thường gọi là thuyền bát nhã, chở chúng ta từ bến mê, đầy dẫy những chuyện bất trắc, bất như ý, phiền não và khổ đau, qua đến bờ bên kia, được gọi là bờ giác ngộ và giải thoát. Con người đạt được giác ngộ, giải thoát mọi khổ đau, trói buộc, dính mắc của chuyện thế gian, hàng phục được vọng tâm, vọng tưởng, vọng thức, vọng niệm, tâm liền được an trụ.  Từ đó, tuy vẫn sống tại thế gian, nhưng tâm an nhiên tự tại, bình tĩnh thản nhiên trước mọi sóng gió của cuộc đời.  Ngay đó, cảnh giới niết bàn hiện tiền. 

Không hạnh phúc nào hơn an tịnh tâm. 
Nếu như các cơ sở Phật giáo như chùa chiền, niệm Phật đường, thiền viện, trung tâm văn hóa Phật giáo, ngoài việc chăm lo phát triển tầm mức hoạt động, phát triển qui mô của cơ sở, ngoài các hình thức nghi lễ cần thiết của một tôn giáo, ngoài các phương tiện thiện xảo dĩ huyễn độ chơn giúp người sơ cơ, với tâm đại từ đại bi, tận tâm tận tình, tận sức tận lực, truyền bá chánh pháp, giảng dạy giáo lý, giúp đỡ mọi người sáng tỏ chân lý, thấu hiểu mục đích cứu kính của đạo Phật, cốt tủy của đạo Phật, thì thực là phước báu lắm thay, hạnh phúc lắm thay! 

Người Phật Tử chân chính đến các chùa chiền, hay các cơ sở Phật giáo, chỉ nên cầu học Chánh Pháp, để tự mình cứu độ chính mình, theo lời dạy của chư Phật, chuyển hóa phiền não thành bồ đề, loạn tâm thành an tâm, tâm phan duyên thành tâm thanh tịnh, không cầu bất cứ điều gì khác, nhứt là những điều chư Phật khuyên dạy nên bỏ, chẳng hạn như: tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ, và các sự hưởng thụ sung sướng, cùng những điều mê tín dị đoan: dâng sớ cầu an, cúng sao giải hạn, xin xăm bói quẻ, coi ngày tốt xấu.  _

 TK Thích Chân Tuệ
(trích:"Cốt Tủy Phật Giáo)



HIỂU ĐÚNG CHÁNH PHÁP ĐƯỢC AN LẠC

Trong suốt cuộc đời, năm nào cũng vậy, chúng ta cũng gặp, những chuyện may mắn, vừa ý vui vẻ, cùng với những chuyện, kém may không tốt, khó chịu buồn phiền! Ngay cả cuộc đời, các bậc thánh nhân, các vị giáo chủ, trên thế gian này, cũng không ngoại lệ, có người tán tụng, tung hô khen ngợi, bái phục qui ngưỡng, đồng thời cũng không, tránh khỏi rắc rối, phỉ báng mạ lỵ , vu khống cáo gian. Thậm chí có vị, bị bắt bỏ tù, hay bị xử chết, một cách thê thảm! Tại sao như vậy? Bởi vì thực ra, đã là người ta, dù là thánh nhân, bậc đại tu hành, hay đã đắc đạo, tất cả đều không, ra ngoài nhân quả.


Nói một cách khác, tất cả mọi người, gây tạo nghiệp nhân, do thân khẩu ý, tốt có xấu có, thiện có ác có, lành có dử có, hiền có hung có, trong vô lượng kiếp, hay trong kiếp này, nếu biết ăn năn, sám hối phát nguyện, tu tâm dưỡng tánh, giác ngộ chánh đạo, giải thoát luân hồi. Tuy nhiên vẫn phải, cam lòng đền trả, nghiệp quả đã gieo, mình làm mình chịu, thế mới công bằng, chí công vô tư, bất tùy phân biệt, chứ đừng lập đàn, cầu được bình an, bằng cách vái van, van xin cầu khẩn, uổng công vô ích, đó là quịt nợ! Khi nào nghiệp quả, còn gọi nghiệp báo, hay là quả báo, đến ngày phải trả, dù là thánh nhân, dù là giáo chủ, giáo phẩm chức sắc, quyền cao chức trọng, giàu sang danh vọng, chí đến thứ dân, bần cùng cố nông, cũng không tránh khỏi!


Trong Kinh A Hàm, Đức Phật có dạy:
Dù trốn lên non,
xuống biển vào hang,
nghiệp báo đã mang,
không ai tránh được.

Người trên thế gian, thường hay nói rằng: "hễ trời kêu ai, thì người ấy dạ!", hoặc là có câu: "lưới trời tuy thưa, mà chưa ai lọt", chính là nghĩa đó.

Những chuyện vào chùa, cúng chút tiền lẻ, hoặc một nén hương, hay một nãi chuối, một ít trái cây, một chút chè xôi, ôi thôi khấn vái, xin xỏ đủ điều, nhiều khi hái lộc, tay lắc ống xăm, mong được quẻ tốt, tình duyên gia đạo, thảy đều cát tường, thường muốn quẻ thượng, cầu khẩn van xin, khấn vái thần linh, cầu cho trúng số, cầu cho thắng kiện, cầu cho hơn người, đấu tranh thắng lợi, cửu huyền thất tổ, đều được siêu thăng, nội ngoại hai bên, ông bà cha mẹ, con cháu trong nhà, bình yên vô sự, sung sướng tấm thân, sức khỏe dồi dào, tai qua nạn khỏi, thi đâu đậu đó, được làm quan to, giàu sang phú quí.


 Đem tượng thần tài, vào chùa điểm nhãn, cho được linh hiển, phù hộ làm ăn, buôn may bán đắt, một vốn bốn lời, nhứt bổn vạn lợi, là những việc làm, biểu tượng tâm tham, vô bờ vô bến, thỏa mãn tâm sân, như hỏa diệm sơn, tràn ngập tâm si, vô minh muôn thuở! Tham sân si là, cội nguồn sanh tử, cần phải dứt trừ, chính nghĩa đó vậy.
 BBT PHẬT HỌC TỊNH QUANG
cutranlacdao@yahoo.com



Vô thường
Đường xưa, mây trắng, nắng quanh
Hàng cây ven mé, xanh xanh lắm rồi.
Mênh mông, sống vỗ, mạn đời.
Lòng ta thanh thản, vui tươi an nhàn.
Tiếc chi, danh lợi, trần gian.
Cũng chỉ bọt nước, hợp tan đó mà.
Có chi mà, giữ trong ta.
Sao người còn tiếc - chết  thà không buông.
***

Bình đẳng là tánh của vạn:”Pháp”
  Thân thọ sanh từ nơi không tướng,
Như giấc mơ do tượng hình ra.
Người mơ tâm thức đâu mà,
Trụ đâu tội phước, đều là thành không.


       Pháp lành khởi vốn xưa là huyễn,
       Nghiệp dữ gây, cũng huyễn mà ra.
       Mình bọt đậu gió lồng qua,
       Không căn, không thật, pháp là huyễn thôi.


 Bốn vật lớn mượn làm thân đó,
Tâm không sanh, nhơn cảnh mà sanh,
Cảnh không, tâm cũng không thành,
Đôi đàng tội phước, như hình huyễn thôi.


       Thân không thật thấy là thân Phật,
       Tâm bông – lông thấy Phật bông lông.
       Thân tâm tánh ấy vốn không,
       Người ta với Phật, cũng đồng như nhau.


 Thân chẳng thấy, biết là thân Phật,
Nếu biết rồi, thì Phật là không.
Người khôn biết tội – tánh không,
Thản nhiên chẳng sợ, trong vòng tử sanh.


         Tánh chúng sanh, thảy thanh tịnh hết,
         Do không sanh, không diệt mà ra.
         Thân tâm là huyễn thôi mà,
         Huyễn thì tội phước, hóa là thành không.


 Pháp là Pháp, vốn xưa không Pháp,
Không pháp mà, cũng Pháp đó đây.
Soi ra không pháp buổi nay,
Pháp nào Pháp nấy, nào hay Pháp nào.


  (Bài này là cốt tủy của Bát Nhã)
 Thích Giác Minh Hữu

Các bài viết cùng chủ đề trong bộ sách "CƯ TRẦN LẠC ĐẠO" gồm 3 tập:

Ý NGHĨA CỦA CUỘC SỐNG
CẦU TRỜI CÓ ĐƯỢC GÌ ĐÂU
CỐT TỦY CỦA ĐẠO PHẬT
CHÁNH KIẾN VÀ CHÁNH TÍN

Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ
Chủ-Nhiệm PHẬT-HỌC TỊNH-QUANG CANADA
108 - 123 Railroad St.,
Brampton, ON, L6X-1G9, Canada.
Tel: 647-828-1016