Tôi mong
tất cả Tăng Ni là người lãnh đạo Phật tử, quí vị đi và dẫn dắt Phật tử cùng đi
đúng theo con đường đức Phật đã đi.
Đừng đi
sai, đừng đi lệch, uổng một đời tu, không biết mai kia có gặp lại Phật pháp
không?
Làm sao
chúng ta đứng vững và luôn luôn không bị những luồng gió nhơ nhớp của thế gian
làm lem
luốc,
phải trong
sạch vững vàng trên con đường đạo. Đó là chỗ tha thiết mong mỏi của tôi.
HT
Thích Thanh Từ
lllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll
Ni sư
Thích Nữ Hạnh Chiếu
“Chỉ
là nắm tro” không phải là một bài kinh trong kho tàng Phật điển, mà nó là một
thực tế. Thực tế ấy tôi đã chạm mắt, đã sờ mó được. Từ đó tôi có một cảm nhận
riêng, xin được chia sẻ với tất cả các bạn đồng tu nắm tro này.
Vì là nữ nên Hòa thượng sắp xếp ở thiền viện ni tức
Linh Chiếu. Cụ lớn tuổi nên không nhập chúng, mà ở cái thất trong khuôn viên
thiền viện do Hòa Thượng cất cho. Vì thế chúng tôi xem cụ như một thiền sinh ni
của viện. Cụ rất siêng tu, không bao giờ lơi lỏng, tự lực lo cho mình mọi việc,
ít làm phiền đến chư Ni. Năm 91 tuổi cụ vẫn tự quét nhà, rửa chén, giăng mùng,
không phải nhọc nhằn ai, sáng suốt minh mẫn và rất dễ thương. Đến 92 tuổi cụ
mất, ra đi hết sức nhẹ nhàng, không giật mình giật mẩy, không làm kinh động đến
đại chúng.
Khi được tin cụ yếu, tôi sang thăm. Cụ nhìn tôi quá
đổi hiền lành rồi khép nhẹ đôi mắt, đi hồi nào tôi không hay. Thiền viện lo hết
chuyện hậu sự. Hỏa táng xong, buổi chiều tôi cùng chư ni đi lấy cốt. Phần xương
cho vào hủ đem về nhập tháp Liên Hoa tại Thường Chiếu, còn lại phần tro quý cô
hốt vô bao ni lông đem đến cầu Long Sơn – Bà Rịa.
Tại đây tôi được chư huynh đệ
chỉ cho dãy núi Long Sơn thật trầm mặc nằm sâu lắng bên trong. Dòng sông trước
mắt cũng trôi chảy yên ả quá chừng, làm như không có chuyện gì phải buồn phải
vui. Sạch và trong văng vắt. Tôi thật bất ngờ về một miền đất gần gũi với mình.
Ở đó có một dòng sông tinh khiết, yên tĩnh, như không hề bận tâm tới chuyện phố
thị rộn ràng bên ngoài.
Huynh đệ chia nhau nắm tro sau cùng của người pháp
lữ cao niên rải xuống dòng sông. Nắng chiều óng ánh chiếu xuống màu áo lam, màu
xám tro, màu sông nước, màu trái tim huynh đệ lần chia tay. Đẹp và cảm động vô
cùng. Khi tôi bốc nắm tro rải xuống, bụi tro bay bay trong hư không, từ từ tan
loảng rồi hòa vào sông nước. Về đến thiền viện, ngồi lặng lẽ trong phòng, tôi
như ngộ ra một điều: đời người chỉ là nắm tro.
Thật ra chuyện này chúng ta ai cũng biết. Tôi cũng
biết. Nhưng mãi đến khi chính bản thân mình cầm nắm tro của bà cụ, mà trước đó
mình ngồi một bên, còn nhìn, còn nói, còn cười gọi tên… bây giờ lại là nắm tro,
cũng do chính tay mình đem gởi xuống dòng sông. Bỗng dưng tôi cảm nhận sâu sắc
về một đời người, chung cuộc của chiếc thân tứ đại, ai cũng như ai, chỉ là nắm
tro. Đã là nắm tro thì không có nắm tro nào sang hơn nắm tro nào, không có nắm
tro nào vinh quang hơn nắm tro nào, không có nắm tro nào ti tiện hơn nắm tro
nào. Tự nhiên bao nhiêu muộn phiền, toan tính trong lòng rớt xuống. Bởi vì mình
đã là nắm tro thì không có lý do gì đi phiền não các nắm tro khác.
Chúng ta ít nhiều đã đánh mất cả một quãng đời của
mình trong phiền lụy, khổ đau. Cuối cùng tứ đại này không mang theo được vì nó
chỉ là nắm tro, chỉ mang theo nghiệp mà thôi. Sao ta không tự hỏi vì cái gì mà
ta tạo nghiệp, vì ai mà ta tạo nghiệp? Vì nắm tro mà tạo nghiệp! Có vô lý
không. Phải chi vì vàng vì ngọc mình tạo nghiệp cũng được đi, nhưng vì nắm tro
mà tạo nghiệp thì oan uổng quá. Tạo nghiệp để mưu cầu hạnh phúc, không ngờ lại
chuốt quả khổ đau. Bởi vì ranh giới giữa hạnh phúc và khổ đau nằm ở chỗ nào,
chúng ta không biết được.
Chẳng hạn trời đang nóng mình thèm ăn kem. Ăn được
một cây kem thật tuyệt vời, có thể gọi là hạnh phúc. Ăn thêm một cây nữa, cũng
còn hạnh phúc. Thêm một cây nữa thì… hết hạnh phúc, bởi vì nó sắp nôn ra đây
nè. Nếu ăn kem là hạnh phúc thì càng ăn càng hạnh phúc, ăn một cây hạnh phúc
chỉ có một, ăn hai cây hạnh phúc nhân đôi, ăn ba cây hạnh phúc nhân ba. Tại sao
ăn ba cây lại hết hạnh phúc? Thì ra chúng ta đã hiểu lầm về hạnh phúc. Hạnh
phúc là gì? Là vừa lòng. Tạm định nghĩa ngắn gọn như vậy đi.
Mình cho rằng cái
gì vừa lòng, thích thú, thỏa mãn là hạnh phúc, mà không biết rằng cơ thể chúng
ta, tâm tư chúng ta không bao giờ thỏa mãn được hết. Khi tham là cứ muốn thêm,
mà sự tiếp nhận của thân tứ đại có chừng mực. Đến lúc nó không tiếp nhận được
nữa, mà nghiệp tham vẫn lôi kéo, thế là có sự xung đột giữa thân và tâm. Như
vậy là mất hạnh phúc.
Phật dạy các pháp chỉ là duyên sinh thôi, chứ không
có cái gọi là chân thật trong đó. Chúng ta luôn mong muốn mình sống thì phải
được vừa lòng hoài, nhưng các duyên không biết chuyện ấy. Nó cứ đến cứ đi, cứ
họp cứ tan theo cách của nó. Mình không vừa lòng thì thôi, nó không chiều mình.
Cho nên rốt lại hạnh phúc không có thật. Nó chỉ là ảo giác của cảm thọ.
Cảm thọ có ba:
Một là thọ khổ. Khi gặp những cảnh
trái ý, nghịch lòng chúng ta không thích, gọi là thọ khổ.
Hai là thọ lạc. Gặp
những cảnh vừa ý thuận lòng, chúng ta thích thú sung sướng, gọi là thọ lạc.
Ba
là thọ không khổ không lạc. Khi gặp cảnh bình thường, chúng ta cũng thấy bình
thường, gọi là thọ không khổ không lạc.
Trong ba cái thọ này, có một số người
thích thọ bình thường. Tại sao? Vì họ bảo có vui thì có khổ. Do sợ khổ nên
không dám nhận vui, Lo xa như thế. Thì ra vì né cái khổ mà tránh cả cái vui,
chớ không phải giác ngộ cái vui tạm bợ của thế gian vốn không thật. Do đó mà
chọn thọ bình thường. Nhưng Phật nói rõ thế này: Ba cái thọ đó đều vô thường,
ngay cả thọ bình thường cũng không thường.
Tóm lại, có thọ là có khổ. Chẳng hạn
bây giờ mình không buồn cũng không vui, nhưng có chuyện buồn tới mình sẽ buồn.
Chúng ta chọn cái bình thường, nhưng ngoại duyên không mãi bình thường được, nó
luôn thay đổi.
Ngoại duyên đến từ bên ngoài, chúng ta không thể chủ
động được. Trong toàn bộ đời sống, con người chỉ chủ động một phần, còn lại
phần lớn là bị động bởi các duyên bên ngoài. Như thời tiết tốt chúng ta thấy
bình thường, dễ chịu, nhưng nếu nước lụt lên thì sao? Khổ liền. Các tỉnh miền
Trung, miền Tây Nam bộ lụt hoài, dân mình cứ phải sống theo con nước, hoàn toàn
không thể chủ động được. Đâu có ai muốn lụt, nhưng nước vẫn cứ dâng. Đó là
duyên bên ngoài. Đến duyên bên trong lục phủ ngũ tạng của chúng ta cũng thế. Có
ai muốn bệnh đâu, mà sao vẫn cứ bệnh. Già có bệnh của già, trẻ có bệnh của trẻ.
Ngày nay trẻ đã bệnh ké những bệnh của người già. Như vậy thân của mình mà mình
nói nó không nghe, biểu đừng bệnh mà vẫn cứ bệnh. Rõ ràng chúng ta mất quyền tự
chủ đối với thân tứ đại này rồi. Cho nên Phật bảo thân này không phải của mình.
Đã không phải của mình, tại sao người ta nặng nhẹ
một chút mình lại nổi sùng? Chúng ta khổ vì chúng ta lầm. Đơn giản vậy thôi.
Hàng xóm mích lòng nhau là vì hiểu lầm. Phật nói thân này là duyên sinh, do bốn
chất đất nước gió lửa hợp thành, đó là phần thân, còn phần tâm là do nghiệp
dẫn. Chúng ta tạo nghiệp, rồi nghiệp quay trở lại lưu dẫn chúng ta thọ sanh.
Cho nên đời quá khứ chúng ta tạo nghiệp gì nhiều, đời sau sanh ra rất quen
thuộc với nghiệp ấy. Thương ai nhiều, ghét ai nhiều, nhắc ai nhiều thì đời sau
được gặp lại thôi.
Nếu đời quá khứ ta đã là người tu, đời này sanh ra thấy chùa
muốn tu ngay. Đời quá khứ là ca sĩ, đời này nghe nhạc là hát. Hát rất hay mà
không cần ai chỉ vẽ, vì đã huân tập rồi. Nhiều thiên tài xuất hiện dưới dạng
thần đồng, người ta bảo là thiên tư, thật ra nó là dòng nghiệp được nối tiếp từ
đời trước.
Tuy nhiên, đạo Phật bảo nghiệp cũng không thật, có
thể thay đổi được. Bởi vì nó do duyên tạo tác, luôn thay đổi sinh diệt. Nếu
thật thì nó còn hoài và không thể sửa đổi. Song nó luôn biến dịch nên chúng ta
có thể thay đổi được. Khi mê chúng ta tạo nghiệp xấu, nhưng tỉnh rồi không tạo
nghiệp xấu nữa, mà tạo nghiệp thiện. Ví dụ chúng ta mê nên có tham sân si, nếu
sáng suốt tỉnh táo ta sẽ không thèm tham sân si nữa. Điều đó có người đã làm
được, như các bậc thánh nhân, cao tăng xưa cũng như nay. Nhờ thế chúng sanh mới
có thể tu thành Phật.
Có người thấy tiền thích, có người thấy tiền không
thích vì họ không có nhu cầu. Nhu cầu thường không nhất định, do quan niệm và
sở thích của mỗi người mà phát sinh. Muốn bớt tham thì bớt nhu cầu. Muốn không
tham thì không có nhu cầu. Vậy thôi. Cho nên tham tiền hay không tham tiền,
chúng ta làm được, nếu muốn. Giữa hai nghiệp thiện và ác, mình muốn làm ác cũng
được, muốn làm thiện cũng được. Làm ác thì nghiệp ác dẫn đi trong đường ác. Làm
lành thì nghiệp thiện dẫn đi trong đường lành. Tất cả đều do chúng ta quyết
định.
Có người thắc mắc, khi chết rồi đi về đâu ai mà
biết được?
Về vấn đề này, chúng ta có thể lý giải sự có mặt của nghiệp qua
những gì mình thấy biết trong đời hiện tại. Như một gia đình, cha mẹ sanh ra ba
đứa con. Chúng được chăm sóc như nhau, mà ba đứa không đứa nào giống đứa nào.
Chúng khác nhau trên mặt mày, trên tánh tình. Tại sao cùng cha cùng mẹ, cùng
sống trong một môi trường, cùng nhận sự yêu thương chăm sóc như nhau mà lại
khác nhau? Nhiều đứa bé mới hai ba tuổi đã thể hiện những đường nét riêng của
nó. Đường nét riêng này ở đâu ra? Đâu có chuyện khơi khơi mà ra, chứng tỏ nó có
chủng tử nghiệp từ đời trước.
Thêm điều này nữa, chúng ta vừa thấy người nào đó
thì mến liền, mặc dù chưa nói chuyện với nhau lần nào. Người ấy có thể dễ mến
với mình, nhưng chưa hẳn dễ mến với người khác. Cũng thế, trong trường hợp đối
nghịch. Vừa thấy người đó lần đầu, bỗng nhiên ta dị ứng ngay, thì biết oan
nghiệp tới rồi. Cho nên lúc ra đi, tâm mình bình an không vấn vương việc gì,
không sợ hãi việc gì, không lưu niệm việc gì thì đi thanh thản, theo phước
duyên thọ thân sau tốt đẹp. Ngược lại, trước lúc ra đi chúng ta sợ hãi, hoảng
loạn, lo nghĩ đến con cháu thì thọ thân sau trong sự trói buộc của nghiệp lực
đời trước.
Người Phật tử hiểu đạo rất sợ tạo nghiệp. Thân này
không giữ được vì nó là nắm tro, nhưng nghiệp sẽ quyết định cho vận mệnh nhiều
đời của mình. Chúng ta không đầu tư vào chuyện chăm chút nắm tro, mà lo chuyển
hóa tu tập ba nghiệp của mình. Hơn thua nhau từng tiếng là tạo nghiệp bất
thiện. Từ đó lưu vào tâm thức những hình ảnh căm tức sân hận, nguyện gặp lại để
trả thì rất nguy hiểm. Đó là một trở ngại trong tiến trình tái sinh, nếu chúng
ta chưa giải thoát được.
Ở đây mục đích của người tu thiền là giải thoát
sanh tử, nhưng chúng ta không dám đi quá xa với mức độ tu tập thực tế của mình,
chỉ mong quý Phật tử chuyển được nghiệp bất thiện thành nghiệp thiện, định tĩnh
trước phút lâm chung để có được hướng đi tốt. Sức mạnh của nghiệp rất đáng sợ.
Ví dụ người nữ có tật hay cằn nhằn. Thật ra họ không muốn cằn nhằn nhưng khi đã
thành nghiệp rồi, vừa gặp chuyện không hài lòng thì cằn nhằn. Cằn nhằn mà không
hay mình đang cằn nhằn. Cho nên mới nói bị nghiệp lôi, không kiềm chế được.
Cũng như bên nam có tật uống rượu. Uống quen không uống thấy buồn, thấy thèm.
Đặc biệt những lúc căng thẳng, bức xúc là đi kiếm rượu uống. Nhiều vị dư biết
uống rượu là uống chất độc mà đã nghiền rồi thì không cưỡng lại được.
Thế nên
vị nào lỡ nghiền rượu mà muốn bỏ thì xin đừng đi ngang quán rượu. Quán rượu đâu
có tay mà kéo quý vị, nhưng cái nghiệp nó sẽ kéo. Nghiệp là gì? Là thói quen.
Thật đơn giản mà không đơn giản chút nào. Tại sao? Như nghiệp uống rượu, nghiệp
đánh bài, nghiệp hút thuốc… muốn bỏ không phải là chuyện đơn giản.
Lại nữa, chúng ta không ai thích phiền não nhưng
luôn luôn sống trong phiền não.
Tại sao? Tại quen rồi, bỏ không được. Ai bắt
chúng ta phiền não? Ta không có câu trả lời vì ta không dám nhận lỗi về mình.
Bây giờ muốn giải trừ phiền não, nhất định phải truy nguyên cho ra nguồn gốc
của nó. Phiền não từ mình mà ra. Do si mê tăm tối nên ta tạo nghiệp, nghiệp
quay trở lại làm tăng trưởng vô minh. Cứ thế xoay vần gốc vô minh càng lớn,
nghiệp lực càng mạnh, chúng ta càng bị nó sai sử, chớ không ai bắt mình cả. Đối
với phiền não, nhà Phật gọi nó là giặc. Muốn trừ giặc, trước tiên ta phải phát
hiện nó thật sớm, sau đó kiên quyết đuổi sạch, không khoan nhượng mới yên ổn
được. Vừa nổi nóng lên ta phát hiện ngay, một tên giặc vừa ló đầu ra, dùng gươm
trí tuệ chém nhanh. Tự nói giận làm gì cho mệt, không thèm giận. Đó chính là tu
tập, là chuyển hóa nghiệp. Việc này cũng phải có lực, nhà Phật gọi là đạo lực.
Muốn có đạo lực mạnh phải liên tục huân tu, không đợi gặp cảnh mới tu.
Cái gan của chúng sanh lớn tợn lắm, rất sợ khổ mà
chuyên lao vào nhân khổ. Phật nói Bồ-tát sợ nhân chúng sanh sợ quả. Nếu thấy
phiền não mệt quá thì đừng thèm phiền não. Thí dụ hồi xưa mình nói chuyện với
ai, bất đồng ý kiến là bắt đầu nổi sùng trong bụng, tức thiệt là tức. Bây giờ
thấy tức mệt quá mình không tức nữa. Vậy thôi. Ngoài cách đó ra không còn cách
nào hữu hiệu hơn. Có người bảo làm không được. Được chứ! Cứ không thèm tức thử
coi ai làm gì mình. Thật ra chúng ta không chịu buông cái sân giận mà lại đuổi
theo nó, chơi với nó, hòa nhập làm một với nó. Trong tâm cứ bám cứng theo đối
tượng làm nhân cho sự tức tối thì làm sao hết tức được.
Như có vị ngồi đây trong lòng đang buồn bực chuyện
riêng. Lẽ ra hôm nay không đi nghe pháp mà tại sùng bà hàng xóm quá, đi cho
khuây khỏa. Nếu chúng tôi chia sẻ với quí vị rằng đừng thèm sùng bà hàng xóm đó
nữa, bỏ đi. Quí vị đồng ý thực tập như vậy. Bà ta đâu có nhảy vô bụng của quí
vị cản lại điều ấy. Thành thử do ý chí, do quyết định sáng suốt, do sự thực
hành của chúng ta thôi.
Tất cả trạng thái tâm khổ đau là do ta tạo ra, ta lầm
chấp. Người kia có quyền thích ngọt, mình có quyền thích mặn, không thể bắt
buộc người kia thích giống mình. Cũng không vì người kia thích ngọt, mà ghét
người ta. Điều này vô lý. Tất cả các pháp do duyên sinh, không có duyên nào
giống duyên nào, chỉ giống nhau ở chỗ chúng đều là tướng sinh diệt. Tướng sinh
diệt thì không chân thật, có gì ta lấn cấn với nhau hoài, cuối cùng không ai
hơn ai, cũng không ai tồn tại.
Chỉ một thứ tồn tại gây khó cho mình, đó là nghiệp
ta đã tạo. Thế mà ta lại quên, cứ tạo hoài. Chính nghiệp tham sân si quyết định
cuộc đời tiếp tục của chúng ta. Trong một đời này mình khổ đã ngán rồi, bây giờ
gieo nhân để thọ thân nữa thì được khổ nữa. Một lần có thân là khổ, Phật bảo
bốn thứ khổ cơ bản của thân là sanh lão bệnh tử, không ai tránh khỏi. Đó là
chưa kể tới thành bại hơn thua trong cuộc đời. Thật ra cái chết không đáng sợ,
nhưng vì mình mê thân nên sợ chết. Sống thì khổ mà lại không muốn chết. Vậy chớ
sống để làm gì? Sống để khổ. Có lạ lùng chưa!
Trở lại vấn đề nắm tro. Khi đang sống đây, dù chúng
ta thành công vinh quang cách mấy, cũng không giữ được. Vì sự thành công ấy
phải gắn liền với chủ nhân, mà chủ nhân sẽ không còn nữa để nhận sự vinh quang
kia. Chủ nhân theo vô thường mà trở thành nắm tro. Tội gì vì một nắm tro mà ta
khổ triền miên như vậy. Sao không ngay đây thanh thản, hạnh phúc, bình an, để
khi trở về với cát bụi, ta chỉ còn lại sự thanh thản, bình an chớ không phải là
nghiệp thức mênh mang. Giả như còn nghiệp chúng ta cũng thọ nghiệp lành, tái
sanh vào cõi lành. Nếu hết nghiệp chúng ta không còn đi trong sanh tử, vĩnh
viễn thoát khỏi khổ đau.
Chúng ta cũng nên như thế, sống giữa trùng trùng
duyên sinh tương đối, thân này còn không giữ được huống là mọi việc chung
quanh. Cho nên người tỉnh ngộ sớm chừng nào thì khỏe chừng đó. Tỉnh ngộ chậm
hoặc không khéo tỉnh ngộ thì sẽ khổ đến nhắm mắt. Chẳng những khổ đến nhắm mắt
mà cho tới lúc tái sinh vẫn tiếp tục khổ. Chúng ta buông xuống hết những buồn
phiền, giận hờn, thương ghét để sống đúng trở lại bản vị của mình. Bên cạnh
chùm duyên sinh còn có tánh giác.
Tánh giác ấy chúng ta hiện có đủ, bình đẳng
như nhau và vĩnh cửu bất sanh bất diệt. Chúng ta luôn luôn nghe, luôn luôn thấy
rõ ràng, đó là tánh Phật thường biết nơi mỗi chúng sanh. Tánh này không ưu tư,
không lao lự toan tính, thường tại như vậy. Chỉ khi buông hết các duyên, ta mới
nhận ra mình có tánh giác hiện hữu. Bấy giờ còn thân tứ đại cũng vui mà không
còn thân tứ đại cũng vui, sống cũng vui mà chết cũng vui.
Trong nhà Phật, người tu giỏi là người buông xả
giỏi. Buông tới lúc trong lòng trống rỗng, không còn gì để buông nữa thì sống
chết tự tại, vĩnh viễn an vui. Đó là những gì chúng ta cần chia sẻ với nhau.
Ni sư
Thích Nữ Hạnh Chiếu Trụ trì Thiền viện Trúc Lâm Trí
Đức Ni
HÌNH THỨC MÊ TÍN KHÔNG PHẢI LÀ PHẬT GIÁO
Con Chim Trong Bàn Tay
Người Ba Tư có kể câu chuyện ngụ ngôn như sau:
Ngày xưa, tại quảng trường của một thành phố nọ, có một nhà hiền triết xuất hiện
và tuyên bố giải đáp được tất cả mọi thắc mắc của bất cứ ai đến vấn kế. Một hôm, giữa đám người đang say mê lắng nghe nhà hiền triết, có một mục tử từ
trên núi cao đến. Nghe tiếng đồn về sự thông thái và khôn ngoan của nhà
hiền triết, anh muốn chứng kiến tận mắt, nghe tận tai và nhất là để hạ
nhục nhà hiền triết giữa đám đông. Anh tiến đến gần nhà hiền triết, trong tay bóp chặt một con chim nhỏ. Anh đặt câu hỏi như sau:
"Thưa ngài, trong tay tôi có cầm một con chim. Ngài là bậc thông thái biết được mọi sự. Xin ngài nói cho tôi biết con chim tôi đang cầm trong tay sống hay chết?".
Nhà hiền triết biết đây là một cái bẫy mà người mục tử tinh ranh đang giăng ra. Nếu
ông bảo rằng con chim đang còn sống, thì tức khắc người mục tử sẽ bóp
cho nó chết trước khi mở bàn tay ra. Còn nếu ông bảo rằng con chim đã
chết thì lập tức con người khôn manh ấy sẽ mở bàn tay ra và con chim sẽ
bay đi. Sau
một hồi thinh lặng, trước sự chờ đợi hồi hộp của đám đông, nhà hiền
triết mới trả lời như sau: "Con chim mà ngươi đang cầm trong tay ấy sống
hay chết là tùy ở ngươi. Nếu ngươi muốn cho nó sống thì nó sống, nếu
ngươi muốn cho nó chết thì nó chết".
Suy Ngẫm
Trên
đời này, chuyện gì cũng có hai mặt. Bàn tay cũng có hai mặt. Đồng tiền,
tờ giấy cũng có hai mặt. Tâm con người cũng có hai mặt: chân tâm và
vọng tâm. Hành động lời nói ý nghĩ của con người cũng có hai mặt: thiện
và bất thiện (ác). Cuộc đời cũng có hai mặt: hạnh phúc và khổ đau.
Ai trong chúng ta cũng khao khát hạnh phúc. Ai trong chúng ta cũng mong ước được cuộc sống an bình, vui tươi. Nhưng lắm khi chúng ta chạy theo chiếc bóng mờ ảo của hạnh phúc hơn là hưởng nếm hương vị chính hạnh phúc đang trong tầm tay của chúng ta.
Ai trong chúng ta cũng khao khát hạnh phúc. Ai trong chúng ta cũng mong ước được cuộc sống an bình, vui tươi. Nhưng lắm khi chúng ta chạy theo chiếc bóng mờ ảo của hạnh phúc hơn là hưởng nếm hương vị chính hạnh phúc đang trong tầm tay của chúng ta.
Hạnh
phúc ấy còn hay mất tùy ở mỗi người chúng ta, tùy sự hiểu biết và cách
cư xử trong cuộc sống hàng ngày với tất cả mọi người chung quanh. Chúng
ta được hạnh phúc, chúng ta được an bình hay không là do chính chúng ta
quyết định, không do bất cứ ai, bất cứ thánh thần thiên địa nào ban
cho.
- Tại sao vậy?
-
Bởi vì, nếu thực có đấng nào đó có quyền năng ban phước cho - tại sao
không ban cho ai khác, lại ban cho mình. Mình có xứng đáng được hưởng
hơn người khác chăng? Suy nghĩ ban phước cho chính mình như vậy, chỉ vì
cái bản ngã, ích kỷ, không vị tha, làm sao có được hạnh phúc? Hạnh
phúc đích thực của chúng ta, niềm vui đích thực của chúng ta chính là
chúng ta quên mình vì người, cứu đời giúp người, dù cho hoàn cảnh thế
nào vẫn cảm thấy an bình, hạnh phúc.
Ý
thức được sự xả kỷ vị tha, quên mình vì người trong cuộc sống hàng
ngày, chúng ta sẽ có được niềm vui hạnh phúc đích thực do chính mình
quyết định, chính mình làm chủ, không làm nô lệ.
BUÔNG
Buông tất cả sẽ được tất cả.
Buông tham đắm sẽ được tự tại,
Buông thù hận sẽ được an lành,
Buông si mê sẽ được sáng suốt,
Buông danh lợi sẽ được thanh nhàn,
Buông đấu tranh sẽ được bình yên,
Buông ích kỷ sẽ được hạnh phúc.
Buông vọng chấp sẽ được bồ đề.
Buông tất cả, Niết Bàn Cực Lạc tại thế gian.
VIÊN PHỤNG
CANA DA (ngày
7.10.2010)
NIỀM VUI KHI BIẾT CÁCH ĐÓN NHẬN
NĂM ĐIỂM QUAN TRỌNG CỦA ĐẠO PHẬT
TẬP SAN PHTQ SỐ 23
THÂN BỆNH VÀ TÂM BỆNH
KHÔNG CÓ THẦN LINH TRONG ĐẠO PHẬT, ĐỪNG HIỂU SAI VỀ ĐỨC PHẬT
THẾ NÀO LÀ PHÁP NHẪN BA LA MẬT?
Ý NGHĨA CỦA CUỘC SỐNG
GIÁ TRỊ CỦA CON NGƯỜI