TIỂU-SỬ TỲ-KHƯU THÍCH-CHÂN-TUỆ
Thế danh: Trần-Văn-Trung. Bút hiệu: Cư-sĩ Chính-Trực.
Phẩm vị: Tỳ-Khưu
Sinh ngày 3 tháng 6 năm 1948 tại Saigon. Nguyên quán: Làng
Trường Thọ, quận Thủ Đức, tỉnh Gia Định.
16 tuổi thọ Tam quy Ngũ giới với Thượng Tọa Thích Tâm Giác, Giám Đốc
Nha Tuyên Uý Phật Giáo, được ban Pháp Danh Chính Trực.
Đệ I Đẳng Huyền Đai Nhu Đạo (Viện Nhu Đạo Quang Trung, Dakao, Saigon 1)
Tốt nghiệp Kiến Trúc Sư tại Viện Đại Học Saigon
Tốt nghiệp Kiến Trúc Sư tại Viện Đại Học Saigon
Giảng dạy bộ môn Kiến Trúc Dân Dụng và Quy Hoạch Thành Phố tại Trường Đại Học Kiến Trúc Saigon.
Giám Đốc Trung Tâm Toán Lý Hóa Minh Trung (Dakao, Saigon 1).
Giáo sư Toán Học các trường Bùi Thị Xuân, Đạt Đức, Hiếu Nghĩa, Hoàng Nguyên, Nguyễn An Ninh, Nguyễn Bá Tòng, Nguyễn Công Trứ, Trí Thành, Văn Hiến.
Hội viên Hội Giáo Sư Toán Việt Nam.
Giáo sư Toán Học các trường Bùi Thị Xuân, Đạt Đức, Hiếu Nghĩa, Hoàng Nguyên, Nguyễn An Ninh, Nguyễn Bá Tòng, Nguyễn Công Trứ, Trí Thành, Văn Hiến.
Hội viên Hội Giáo Sư Toán Việt Nam.
Tốt Nghiệp Cử Nhân Kiến Trúc tại Viện Đại Học Toronto, Canada.
Trưởng Cơ Sở Giáo Dục Việt Nam
tại Toronto (dạy Việt Ngữ, Văn Hóa, Toán Học, chương trình Đố Vui Để Học). Trung Tâm Văn Hóa Việt Nam Toronto.
Xuất gia năm 2000, Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Tâm Châu, Thượng Thủ
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Trên Thế Giới, ban pháp danh Chân Tuệ, pháp hiệu
Giác Thắng, pháp tự Thanh Minh.
Sa Di Phụ Tá Tổng Thư Ký Tổ Đình Từ Quang (Montreal, Canada) Trụ sở Trung Ương GHPGVN.TTG (2002-2004)
Tổng Vụ Phó Tổng Vụ Hoằng Pháp GHPGVN.TTG (2004-2008)
Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Nghiên Cứu và Phát Triển Giáo Hội PGVN Trên Thế Giới (nhiệm khóa 2008-2012)
Sáng Lập Trụ Trì Chùa Tịnh Quang (London, Brampton, Guelph) Canada.
Tổng Vụ Phó Tổng Vụ Hoằng Pháp GHPGVN.TTG (2004-2008)
Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Nghiên Cứu và Phát Triển Giáo Hội PGVN Trên Thế Giới (nhiệm khóa 2008-2012)
Sáng Lập Trụ Trì Chùa Tịnh Quang (London, Brampton, Guelph) Canada.
Chủ trương biên tập VP. Phật Học Tịnh Quang Canada.
Chủ nhiệm Tập san Từ Bi & Trí Tuệ phát hành mỗi năm 3 số, từ năm 2006.
Chủ nhiệm Tập san Từ Bi & Trí Tuệ phát hành mỗi năm 3 số, từ năm 2006.
Đã có bài đăng trên các tạp chí và các trang nhà điện toán toàn cầu
Phật Giáo khắp nơi, như Viên Giác (Đức), Pháp Âm (Canada), Pháp Âm (Na Uy), Pháp Âm (Calgary,
Montreal và Texas), Hoa Sen (Edmonton, Canada), Đất Lành (California, Hoa Kỳ), Trúc Lâm (Hoa Kỳ), Phật Giáo
Hải Ngoại (Hoa Kỳ), Phật Học (Kentucky), Nguồn Đạo (Washington D.C.), Linh Sơn
(Michigan), Hoằng Pháp (France), Từ Ân (Canada) .
Tác phẩm đã xuất bản:
- Cư Trần Lạc Đạo - Tập I - 1999
- Cư Trần Lạc Đạo - Tập II - 2000
- Cư Trần Lạc Đạo - Tập III - 2002
- Pháp Môn Chăn Trâu - 2004
- Bát Nhã Tâm Kinh
- Thập Đại Nguyện và Mười Điều Tâm Niệm
- Kinh Nghiệm Nội Quán - Một hướng dẫn đơn giản, trực tiếp
về pháp hành Thiền Phật Giáo - The Experience of Insight, A simple an
direct guide to Buddhist meditation by Joseph GoldStein - cư sĩ Chính Trực dịch
Việt - 2003
Các pháp luận khác đã đăng trên báo chí và trang nhà điện toán toàn
cầu Phật Giáo Việt Nam:
- Ăn Chay hay Ăn Mặn
- Biết Ơn và
Báo Ơn (Vu Lan 2006)
- Cách Xưng Hô
Trong Phật Giáo Việt Nam
- Chánh Kiến và
Chánh Tín
- Chúa cũng chết -
Phật cũng chết
- Công Đức và Phước
Đức
- Cốt Tủy của Đạo Phật
- Dâng Sớ Cầu An Cúng
Sao Giải Hạn
- Đi Chùa Đúng Chánh
Pháp
- Giác Ngộ và Giải
Thoát
- Làm Sao Tìm Phật
- Lương Tâm và Phật
Tâm
- Mê Tín và Chánh Tín
- Mười Điều Tâm Niẹm
- Nhất Chi Mai
- Tám Điều Minh Bạch
Về Tượng Phật Ngọc Hòa Bình
- Thập Đại Nguyện (Bồ
Tát Phổ Hiền)
- Tiền Làm Động Tâm
Tiền Sanh Bất Tịnh
- Tôn Giáo Nào Cũng Mê
Tín
- Tu Tướng và Tu
Tâm
- Từ Bi và Bạo
Lực
- Bàn về Thiện Ác
- Ý Nghĩa của Sự Cầu
Nguyện
- PHẬT GIẢ - PHÁP GIẢ
- TĂNG GIẢ (Tam Bảo Giả)
- TÂM SÁNG SUỐT - TÂM
CHÂN CHÁNH - TÂM THANH TỊNH (Tam Bảo Thật)
Bộ sách Cư Trần Lạc Đạo
cần thiết cho quí Phật Tử
để tìm hiểu chánh pháp và cách ứng dụng
trong đời sống thực tế hàng ngày.
Gồm các bài giảng sau đây:
Nội
Dung Tập 1:
1) An Lạc và Hạnh Phúc 2)
Bát Chánh Đạo 3) Bát Phong 4) Bất Tùy Phân Biệt
5) Chánh Kiến và Chánh Tín
6) Công Đức và Phước Đức 7) Hạnh
Bố Thí
8) Mười Điều Tâm Niệm 9)
Nguồn Gốc của Khổ Đau 10) Phước Báu
11) Thập Đại Nguyện 12)
Xuân Di Lặc.
Nội
Dung Tập 2:
1) Ăn Mặn Ăn Chay 2) Ân
Oán Cõi Đời 3) Bát Nhã Tâm Kinh
4) Cầu Trời có được gì không?
5) Chánh Ngữ 6) Dọn Kho Ăn Tết
7) Giác Ngộ và Giải Thoát
8) Làm Sao Gặp Phật 9) Lương Tâm
và Phật Tâm
10) Pháp Môn Chăn Trâu 11)
Thập Mục Ngưu Đồ 12) Qua Cơn Mê.
Nội
Dung Tập 3:
1) Ái Ngữ 2) Ăn Chay Hay Ăn
Mặn 3) Biết Mình Có Phước
4) Chữ Tâm Trong Đạo Phật
5) Dâng Sớ Cầu An Cúng Sao Giải Hạn
6) Đầu Năm Đi Chùa 7) Gia
Đình Hòa Thuận 8) Giá Trị Của Con Người
9) Không Có Có Không 10)
Luật Nhân Quả 11) Năm Người Mù Rờ Voi
12) Nhân Nào Quả Nấy 13)
Phúc Tuệ Song Tu 14) Tâm Thư
15) Thủ Ấn Của Phật Thích Ca
16) Tội Nghiệp 17) Tu Tâm Dưỡng
Tánh
18) Tứ Nhiếp Pháp 19) Y
Nghĩa Bất Y Ngữ 20) Ý Nghĩa Của Cuộc
Sống.
Phát Tâm Thỉnh Sách - Bảo Trợ Ấn Tống.
oOo
CHỮ TÂM TRONG ĐẠO PHẬT
Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ
(Trích Cư Trần Lạc Đạo Tập 3)
Nương theo giáo pháp Phật Đà
(Trích Cư Trần Lạc Đạo Tập 3)
Nương theo giáo pháp Phật Đà
Chữ Tâm Phật dạy giúp ta độ đời.
Đến
bờ giác ngộ thảnh thơi
Thoát ly phiền não cuộc đời an vui.
Trong nhà Phật, tam tạng kinh điển ghi lại lời dạy của chư Phật, chư
Bồ Tát và chư vị Tổ Sư. Đó là thiền lâm bảo huấn, nghĩa là: các lời dạy
quí giá trong rừng thiền. Người phát tâm tu theo Phật thật khó khăn khi
phải chọn lựa kinh sách nào để đọc trước, sao cho có thể hiểu biết chánh pháp
rõ ràng và áp dụng được vào đời sống hằng ngày. Trong khi đọc tụng kinh sách,
người tu học Phật cũng gặp khó khăn với các từ ngữ chuyên môn, dù là tiếng
Việt, tiếng Hán Việt, hay các ngôn ngữ khác, cần phải tìm hiểu thấu đáo, qua tự
điển, hay nhờ các bậc thiện tri thức giảng giải, giúp đỡ. Sau khi cố gắng lắm
mới tạm vượt qua được sự khó khăn này, người tu tập thường gặp phải ngưỡng cửa:
dù đã học hiểu rành rẽ giáo lý, nhưng vẫn chưa vào được đạo! Thế nào là: vẫn
chưa vào được đạo?
Người tu hành nhiều năm, dù tại gia hay xuất gia, nếu chưa đủ duyên, nếu chưa gặp được hoàn cảnh để sáng đạo, ngộ đạo, thấy đạo, vào được đạo, thì người đó vẫn lòng vòng bên ngoài cửa đạo, vẫn dậm chân tại chỗ ban đầu, vẫn công phu tu tập chậm chạp, vì các nghi lễ nặng phần hình thức, vì các việc làm mong cầu phước báo, vì tâm chấp chặt nhị biên những định kiến đúng sai phải quấy, vì tâm mong cầu bình yên sung sướng, vì tâm chưa thanh tịnh, còn quá lăng xăn lộn xộn bên trong, còn bị trần duyên bên ngoài chi phối.
Thực ra, dù đạo Phật có một rừng kinh điển, sách vở, thích ứng cho
đủ mọi căn cơ, trình độ, giới thiệu tất cả các pháp môn tu tập tự cổ chí kim,
trình bày các kinh nghiệm tu hành từ xưa đến nay, nhưng tất cả những kinh điển,
sách vở đó đều nhằm mục đích duy nhất là: khai mở và chỉ bày cho tất cả mọi
người thấy rõ cái bản tâm thanh tịnh của chính mình. Còn bổn phận của
chúng ta là: ngộ và nhập được bản tâm thanh tịnh đó. Nếu không ngộ được
điều này, tức là không sống được với bản tâm thanh tịnh, người tu tập dụng công
phu nhiều, nhưng thu lượm kết quả chẳng được bao nhiêu. Người nào ngộ và nhập
được bản tâm thanh tịnh, tức là giữ được tâm bình thường, là người thấy đạo,
vào được đạo.
Cho nên, Thiền sư Phổ Nguyện Nam Tuyền có dạy: "Bình Thường Tâm Thị Đạo", chính là nghĩa như vậy.
Nói một cách khác, tất cả kinh điển giáo lý của đạo Phật có thể tóm
gọn vào một chữ, đó là chữ TÂM, mà thôi. Nắm vững được chìa khóa quan
trọng này rồi, người tu học Phật có thể mở toang được tất cả các cánh cửa của
nhà Phật, thấu hiểu những lời dạy của chư Phật, chư vị Tổ sư trong các kinh
điển, sách vở, mục đích thấy được con đường giác ngộ và giải thoát, để xây dựng
đời sống hiện tại được an lạc và hạnh phúc.
Trong phạm vi bài viết này, chúng ta sẽ tìm hiểu chữ TÂM qua các
kinh điển và kinh nghiệm tu tập thực tế của các bậc tôn túc cổ kim. Mỗi
đề mục đều có công năng giải bày bản tâm thanh tịnh, hay tóm gọn vào một chữ,
chỉ rõ đó là: chữ TÂM trong Đạo Phật.
A .- Chữ TÂM qua lời dạy của chư Phật:
1) Trong Kinh Hoa Nghiêm, Đức Phật có dạy: "Nhứt thiết
duy tâm tạo".
Nghĩa là: Mọi sự mọi việc đều do tâm tạo ra tất cả. Công đức cũng do
tâm tạo, nghiệp chướng cũng bởi tại tâm. Đó chính là tâm sanh diệt, lăng xăng
lộn xộn, thay đổi luôn luôn, thường do tham sân si chi phối, thúc đẩy, điều
khiển, cho nên con người thường tạo nghiệp bất thiện nhiều hơn là nghiệp thiện.
Chúng ta đã thấu hiểu lý lẽ chân thật của cuộc đời là: vô thường, không có gì
tồn tại vĩnh viễn, không có gì là tự nhiên sanh mà không có nguyên nhân. Luật
nhân quả áp dụng trong ba thời: quá khứ, hiện tại, vị lai. Sanh sự thì sự sanh.
Nhân nào thì quả nấy. Gieo gió thì gặt bão. Có lửa thì có khói. Cầu nguyện với
tâm lăng xăng lộn xộn, chỉ đem lại sự bình an tâm trí tạm thời. Bình an thực sự
chỉ có cho người thiện tâm. Thiên đàng, địa ngục, tuy là hai tâm trạng khác
nhau, nhưng thực sự, tất cả chỉ là các trạng thái ở trong tâm của chúng ta mà
thôi.
Bởi vậy cho nên, có bài kệ như sau:
Tội tùng tâm khởi tương tâm sám
Tâm nhược diệt thời tội diệc vong
Tội vong tâm diệt lưỡng câu
không
Thị tắc danh vi giai sám hối.
dịch là:
Tội từ tâm khởi đem tâm sám
Tâm đã diệt rồi tội cũng vong
Tội vong tâm diệt cả hai không
Đó chính thực là chân sám hối.
Nghĩa là: Tất cả những tội lỗi gây ra, đều do tâm chúng ta chủ động,
thì phải thành tâm mà sám hối, tự trong thâm tâm. Từ đó, chúng ta phát
nguyện không tái phạm, cho nên mỗi khi tâm tham, tâm sân, tâm si khởi lên,
chúng ta liền biết ngay, dừng lại, không làm theo sự điều khiển, sai khiến của
tham sân si, thì tội lỗi sẽ không còn tái phạm nữa. Khi tội lỗi không
còn, tâm sanh diệt cũng lặng mất, con người sống trong trạng thái tịch tịnh,
bình yên của tâm trí. Đó mới thực là sự sám hối chân chánh.
2) Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Đức Phật có dạy: "Tùy tâm biến hiện".
Nghĩa là: Mọi sự mọi việc trên thế gian này như thế nào, tốt hay
xấu, lành hay dữ, đúng hay sai, phải hay quấy, được hay không, đều do vọng tâm
của chúng ta biến hiện ra cả. Sự cảm thọ tùy theo tâm trạng, tùy theo cá
nhân, không ai giống ai, không lúc nào giống với lúc nào, không thời nào giống
với thời nào, không nơi nào giống với nơi nào.
Trong sách có câu:
“Tâm buồn cảnh được vui sao
Tâm an dù cảnh ngộ nào cũng an.”
Nghĩa là: Cùng một cảnh vật như vậy, nếu có tâm sự buồn phiền áo
não, chúng ta không thấy cảnh vui chút nào. Còn nếu chúng ta có tâm trạng hân
hoan vui vẻ, dù cây khô trụi lá, cảnh vẫn đẹp vui như thường. Cái tâm hân hoan
vui vẻ là chúng ta, hay cái tâm buồn thảm lê thê là chúng ta? Cùng một
câu nói như vậy, nếu tâm an ổn, vui vẻ mát mẻ, chúng ta cũng cho là: nói đúng
nói phải, nói sao cũng được, nói ngược cũng xong. Trái lại, tâm đang bực bội,
ai nói câu nào, chúng ta cũng cho là: nói sai nói bậy, nói xiên nói xỏ, nói
bóng nói gió, nói hành nói tỏi, nói quấy nói quá.
Vậy, hãy thử nghĩ xem, chúng ta là người: có tâm thực tốt, hay tâm
không tốt? Cái tâm sanh diệt, lăng xăng lộn xộn, thay đổi bất thường như
vậy, thực không phải là chúng ta.
3) Trong Kinh A Hàm, Đức Phật có dạy: "Tam giới tâm tận, tức
thị niết bàn".
Nghĩa là: Khi nào dứt sạch tâm trong ba cõi, lúc đó chúng ta mới
thấy được niết bàn. Ba cõi, còn gọi là tam giới, đó là: dục giới, sắc
giới và vô sắc giới. Khi tâm tham nổi lên, chúng ta sống trong dục giới,
tức là cảnh giới đắm nhiễm tham dục, cảm thấy đau khổ triền miên vì lòng tham
của con người không đáy, không bao giờ thỏa mãn được. Con người sống
trong dục giới lúc nào cũng cảm thấy khao khát, thiếu thốn, được bao nhiêu cũng
không thấy đủ, cho nên luôn luôn chạy đôn chạy đáo, tìm kiếm ngũ dục: tiền tài,
sắc đẹp, danh vọng, ăn uống và ngủ nghỉ. Khi tâm sân nổi lên, ngay lúc
đó, chúng ta sống trong sắc giới, tức là cảnh giới chấp chặt sắc tướng, lòng
như thiêu đốt, sắc mặt tái xanh, vì sự tức giận, vì sự bất mãn. Dù tâm
tham không còn, tâm sân cũng tai hại vô cùng.
4) Trong Kinh Hoa Nghiêm, Đức Phật có dạy: "Nhất niệm sân tâm khởi, bách vạn chướng môn khai".
Nghĩa là: Một khi tâm niệm tức giận, sân hận khởi lên mà chúng ta
không tự kềm chế, không tự khắc phục, thì biết bao nhiêu, trăm ngàn vạn chuyện
khó khăn, đau khổ, chướng ngại tiếp nối theo sau đó. Khi tâm si nổi lên,
chúng ta sống trong vô sắc giới, tức là cảnh giới vô minh, rất dễ lầm đường lạc
nẽo, mê tín dị đoan, rất dễ dàng tạo tội tạo nghiệp bằng cách: hãm hại trả thù,
lập mưu tính kế, vu khống cáo gian, thưa gửi kiện tụng, không cần biết hậu quả
khổ đau đối với các người khác và gia đình họ. Những giây phút ngu si,
lầm lẫn thường là nguyên nhân của những sự hối tiếc, đau khổ sau đó, cho mình
và cho người khác, có khi kéo dài triền miên suốt cả cuộc đời.
Bởi vậy cho nên, phải dẹp trừ tận gốc các tâm tham sân si, trong
kinh sách gọi đó là: tam độc, chúng ta thoát ly tam giới gia, cuộc sống mới an
lạc và hạnh phúc.
5) Trong Kinh A Di Đà, Đức Phật có dạy: "Người nào giữ được nhứt tâm bất loạn, trong một ngày cho đến bảy ngày, khi lâm chung giữ tâm không điên đảo, thì người đó được vãng sanh tây phương".
6) Trong Kinh Đại Tập, Đức Phật có dạy: "Nếu thường xuyên giữ được chánh niệm, tâm không loạn động, dứt trừ được phiền não, thì chẳng bao lâu đắc thành quả vô thượng bồ đề".
Nghĩa là: Người tu tập phải luôn luôn quán sát tâm chính mình, luôn
luôn giữ gìn chánh niệm, luôn luôn niệm Phật, khi vọng tâm vọng tưởng vọng thức
vọng niệm khởi lên, liền biết, không theo. Nhờ đó tâm được an nhiên tự
tại, không loạn động, dứt trừ được phiền não, gọi là: nhứt tâm bất loạn.
Nhờ công phu tu tập đó, chẳng bao lâu đắc thành quả vô thượng bồ đề. Khi
lâm chung giữ được tâm không điên đảo, cho nên được vãng sanh cảnh giới tịnh
độ. Muốn làm được điều này, muốn giữ được tâm trí nhứt như không loạn
động, con người phải thấu hiểu và thực hành quán tứ niệm xứ, gồm có: thân, thọ,
tâm, pháp.
7) Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Đức Phật có dạy: "Căn bản của sanh tử luân hồi là: Vọng tâm". "Căn bản của bồ đề niết bàn là: Chân tâm".
Nghĩa là: Chúng sanh sở dĩ bị trầm luân sanh tử, bởi vì suốt ngày
này qua ngày nọ, luôn luôn sống với vọng tâm, tức là tâm lăng xăng lộn xộn,
luôn luôn thay đổi, khi vui khi buồn, khi thương khi ghét, khi khen khi chê,
khi tán thán khi phê phán. Muốn tâm trí sáng suốt thanh tịnh, an nhiên tự tại,
chúng ta cần quán sát tâm chính mình: khi các vọng tâm nổi lên, chúng ta liền
biết, không theo, như vậy vọng tâm lắng xuống, diệt mất, chân tâm hiện ra rõ
ràng.
Muốn làm được điều này, muốn chân tâm hiển hiện, chúng ta cần phải thấu hiểu và tu tập bốn tâm rộng lớn, trong kinh sách gọi là tứ vô lượng tâm, đó chính là: từ, bi, hỷ, xả. Khi có tâm từ và tâm bi, chúng ta sẽ dễ cảm thông với muôn loài, nhứt là với loài người, với những người chung quanh, gần như cha mẹ, vợ chồng, con cháu, xa hơn như bà con, láng giềng, bạn bè. Do đó tâm giận tức, tâm sân hận có thể giảm bớt, nhẹ bớt đi. Khi có tâm hỷ và tâm xả, chúng ta sẽ bớt được các tâm ganh tị, tâm đố kỵ, tâm hơn thua, tâm cố chấp. Cho đến khi nào tứ vô lượng tâm tròn đầy, vọng tâm tan biến, tâm ý trở nên an nhiên tự tại, chân tâm hiển hiện.
Đây mới chính là ý nghĩa thiết yếu của việc tu tâm dưỡng tánh theo
đạo Phật:
Trong tâm khởi niệm, nếu giác kịp thời, liền biết không theo, đó là:
chân tâm.
Trong tâm khởi niệm, nếu còn mê muội, không giác kịp thời, liền theo
niệm đó, trở thành: vọng tâm.
Cũng ví như là:
Khi có gió thổi, mặt biển nổi sóng, gọi là biển động, ví như tâm
lăng xăng lộn xộn.
Mặc dù có gió thổi, mặt biển vẫn bình yên, đó là biển thái bình, ví
như bản tâm thanh tịnh, hay tâm bình thường.
8) Trong Kinh Tịnh Danh, Đức Phật có dạy: "Mặt trời mặt trăng vẫn thường sáng tỏ, tại sao người mù lại chẳng thấy? Cũng vậy, bởi vì nghiệp thức che đậy, chúng sanh thường biết mà cố phạm, cho nên chẳng thấy thế giới Như Lai thanh tịnh trang nghiêm, chẳng nhận ra bản tâm thanh tịnh thường hằng".
9) Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, Đức Phật có dạy: "Tất cả chúng sinh đều có bản tâm thanh tịnh". "Chúng sinh chẳng nhận thấy được, vì bị vô minh che lấp".
Nghĩa là: Con người ai ai cũng có bản tâm thanh tịnh, cũng như mặt
trời mặt trăng luôn luôn sáng tỏ. Chỉ vì tâm tham lam của cải tiền bạc, hoặc vì
tâm sân hận tự ái cao độ, hoặc vì tâm si mê cố chấp, ví như mây đen che lấp mặt
trời mặt trăng, cho nên con người mới tạo tội tạo nghiệp, làm cho tâm trí loạn
động, thường xuyên bất an, điên đảo loạn cuồng, để rồi trôi lăn vào vòng sanh
tử luân hồi, đã muôn kiếp trước, và sẽ tiếp tục trôi lăn, muôn kiếp về sau, nếu
như không chịu dừng nghiệp và chuyển nghiệp.
Với số tiền nho nhỏ, quyền lợi không đáng kể, con người còn có thể
tỉnh thức, dừng được nghiệp, dẹp tâm tham, không thưa kiện người khác, không
gây não loạn cho người, và gia đình của họ. Nhưng khi kiện thưa đòi tiền
bồi thường vài triệu đô la, con người thành ma, tối tăm mặt mũi, liều mạng đưa
chân, hết biết lẽ phải, nhắm mắt làm càng, tới đâu cũng được. Mãnh lực của đồng
đô la quả thực là vạn năng, thượng đế chẳng bằng, đã lôi kéo không biết bao
nhiêu chúng sanh u mê, vào vòng tội nghiệp, từ xưa đến nay!
Chính vì biết mà cố phạm, nghiệp thức che đậy, vô minh che lấp, con
người chẳng thấy được thế giới Như Lai trang nghiêm, bản tâm thanh tịnh. Chúng
ta là người tỉnh thức, đang tu học chánh pháp, đang muốn trở về nguồn cội, đang
muốn chuyển hóa cuộc đời của mình, đang muốn thoát ly sanh tử luân hồi, càng
phải nên hết sức cẩn trọng, cẩn trọng và cẩn trọng!
10) Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật có dạy: "Quá khứ tâm bất khả đắc. Hiện tại tâm bất khả đắc. Vị lai tâm bất khả đắc".
Nghĩa là: Chuyện quá khứ qua rồi đừng luyến tiếc, đừng nhớ nghĩ làm
gì cho bận tâm, chỉ gieo thêm nghiệp chướng chứ chẳng ích lợi gì. Muốn làm được
điều này, ở trong gia đình hay ngoài xã hội, chúng ta cần phải có tâm vị tha,
độ lượng, biết tha thứ, biết cảm thông, nói chung là tâm từ bi. Chuyện hiện tại
rồi cũng qua mau, cố níu kéo cũng chẳng được, có lo âu phiền muộn cũng chẳng
ích lợi gì. Chuyện tương lai chưa đến, lo lắng, ưu tư, sầu muộn cũng chẳng ích
lợi gì. Chi bằng chúng ta giữ gìn tâm trí được như như, bình tĩnh, thản nhiên,
có phải khỏe hơn không? Chuyện gì phải tới nó sẽ tới, lo sợ cũng chẳng
ngăn cản được đâu. Đó chính là nghiệp quả, nghiệp báo, còn gọi là: quả
báo. Hiểu sâu được luật nhân quả, chúng ta sẽ bình tĩnh thản nhiên chấp
nhận quả báo xảy đến. Nếu không muốn có quả báo xấu, chúng ta phải chấm dứt gây
nghiệp nhân xấu, tức là chấm dứt tâm tham sân si, tức là dừng ba nghiệp thân
khẩu ý bất thiện. Trong kinh sách gọi là: dừng nghiệp và chuyển nghiệp.
11) Trong Kinh Tịnh Danh và Kinh Tâm Địa Quán, Đức Phật có dạy: "Tâm tịnh thì độ tịnh. Tâm địa bình thì thế giới bình".
Nghĩa là: Khi những vọng tâm vọng tưởng, vọng thức vọng niệm đã dứt
sạch, người tu tập không còn tham, không còn sân, không còn si. Đến đây, người
tu tập đạt được cảnh giới bất nhị, tức là không còn kẹt hai bên, không còn thị
phi, không còn phải quấy, không còn tranh chấp, không còn hơn thua, không còn
tạo tội, không còn tạo nghiệp, không còn cố chấp. Trong kinh sách gọi đó là
cảnh giới: vô tâm vô niệm, hay là cảnh giới: nhứt tâm bất loạn.
Lúc đó, tâm tịnh, tâm địa bình, tâm vô quái ngại, vô hữu khủng bố, viễn ly điên
đảo mộng tưởng, tức là tâm an nhiên tự tại, không còn điều gì có thể ngăn ngại
được, gây lo sợ khủng khiếp được. Do đó, chúng ta xa rời những thứ điên đảo,
lìa bỏ được mộng tuởng, đạt được cứu kính niết bàn. Mọi người chung quanh cảm
thấy an ổn, yên tâm, khi sống gần người tu tập có tâm tịnh, tâm địa bình.
Thế giới chung quanh thanh bình, quốc độ an ninh, chính là nghĩa như vậy.
12) Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy: "Thắng vạn quân không bằng tự thắng mình". "Tự thắng tâm mình là điều cao quí nhứt".
Thắng được vạn quân, con người tóm thu được quyền lực, danh vọng,
tiền tài, của cải vật chất, đủ mọi thứ trên trần đời. Nhưng tâm người đó
vẫn sống trong tam giới: dục giới, sắc giới, và vô sắc giới, cho nên vẫn còn
phiền não khổ đau, vẫn còn sanh tử luân hồi.
Muốn xuất được tam giới gia, chúng ta phải luôn luôn quán sát
tâm chính mình: Khi nào tâm tham, tâm sân, tâm si nổi lên liền biết, không
theo. Lúc đó chúng ta đã tự thắng mình:tức là tự kềm chế hành động, ngôn
ngữ, ý nghĩ của chính mình. Người ta công kích, khích bác, vu khống, phỉ
báng, phê phán, mạ lỵ, sỉ nhục, mắng nhiếc, người nào phản ứng nhanh, trả đũa
nặng nề thì dễ quá, thường quá. Người nào tự thắng tâm mình, nhẫn nhịn
được mà không thấy nhục nhằn, nhịn mà không nhục, tâm trí vẫn an nhiên tự tại,
mới đáng kính phục, mới là điều cao quí nhứt.
13) Trong Kinh A Hàm, Đức Phật có dạy: "Tâm khẩu nhứt như". Nghĩa là: "Tâm khẩu không khác".
Tâm nghĩ sao, miệng nói vậy. Miệng thường nói tốt, tâm nên nghĩ tốt.
Như vậy, cuộc sống mới được an lạc. Ngược lại, tâm nghĩ một đàng, miệng nói một
nẻo, miệng nói như vậy, tâm không như vậy, nên sách có câu: Miệng thì nói tiếng
nam mô. Trong lòng chứa cả một bồ dao găm. Ở trên đời này, đố ai lấy thước để
đo lòng người. Trong sách có câu: “Tri nhân tri diện bất tri tâm,” nghĩa
là: biết người chỉ biết mặt, không biết được tâm địa. Cho nên chư Tổ có
dạy: Phản quan tự kỷ, nghĩa là: hãy quay lại, quán sát tâm chính mình, để giữ
tâm khẩu nhứt như.
14) Trong Kinh Di Giáo, Đức Phật có dạy: "Chế tâm nhứt xứ,
vô sự bất biện".
Nghĩa là: Khi khắc chế được tâm ý, trụ tâm ở một chỗ, bằng cách tụng
kinh, niệm Phật, thiền quán, qua sự hiểu biết chánh pháp, tâm trí bình tĩnh
thản nhiên, không còn chuyện gì để cãi vã nữa, để tranh chấp nữa, cho nên không
có sự việc gì người tu tập không hiểu biết sáng tỏ, rõ ràng, không biện luận
được một cách thông suốt. Điều này giải thích rằng: không có vị Phật nào
không biết thuyết pháp độ sanh.
B .- Chữ TÂM qua lời dạy của chư Tổ:
1) Trong Kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ Huệ Năng có dạy: "Tâm
thông thì thuyết thông". Hành giả nào thực tâm tu học, không phân biệt tại gia cư sĩ, hay
xuất gia tu sĩ, tâm trí thông suốt, đạt được đến đâu, thuyết giảng thông suốt,
đến mức độ đó, lợi ích chúng sanh. Ví như trước có học hành nghiêm túc,
chân tu thực học, sau đó mới có thể làm thầy chỉ dạy người khác.
2) Thiền sư Bá Trượng Hoài Hải có dạy: "Tâm địa nhược không, tuệ nhựt tự chiếu" Nghĩa là: Khi tâm địa, hay tâm thức, hoàn toàn trống rỗng, lặng lẽ, lẵng lặng, thanh tịnh, không còn chứa chấp những vọng tâm, vọng tưởng, vọng thức, vọng niệm nào cả, thì trí tuệ bát nhã tự bừng sáng. Cũng như mây đen tan biến hết, tức là phiền não không còn nữa, tâm thức không tịch, thì mặt trời trí tuệ tự chiếu sáng. Tâm được thanh tịnh thì cảnh vật cũng thanh tịnh, chúng sanh chung quanh cũng được bình yên.
Một căn phòng tăm tối ngàn đời, nhưng chỉ cần bật điện một cái, hay
đem vào một ngọn đèn, thì liền sáng tỏ ngay, đâu cần đợi ngàn năm sau nữa, mới
chịu sáng lại. Cũng vậy, khi con người chịu mồi ngọn đuốc trí tuệ của
mình với ngọn đuốc chánh pháp của chư Phật, chư Tổ, thì ngọn đuốc trí tuệ của
mình cũng bừng sáng lên ngay. Giây phút bừng sáng đó, trong thiền tông,
gọi là: ngộ đạo, nhập đạo, vào đạo.
3) Thiền sư Bá Trượng Hoài Hải có dạy: "Tâm cảnh không dính nhau là giải thoát".
Nghĩa là: Chúng ta vẫn thấy, vẫn nghe, vẫn hiểu, vẫn biết tất cả các
cảnh trên trần đời, trong kinh điển gọi là: kiến văn giác tri, nếu tâm không
dính mắc, thì không phiền não. Không phiền não tức là giải thoát.
Thật là hết sức đơn giản! Lý lẽ tuy cao siêu vi diệu, nhưng hết sức thực
tế. Bất cứ ai cũng có thể làm được, không cần phải thờ lạy, cúng kiến,
không phân biệt tôn giáo, sắc tộc, ngôn ngữ, nghề nghiệp, xuất xứ, học thức,
nam nữ, già trẻ, bé lớn, giàu nghèo, sang hèn. Tâm không phan duyên chạy
theo cảnh trần là: giải thoát!
4) Sơ Tổ Thiền phái Trúc Lâm Trần Nhân Tông có dạy: "Đối cảnh vô tâm, mạc vấn thiền". Nghĩa là: Khi nào đối trước cảnh trần, tâm không còn dính mắc, không khởi bất cứ tâm niệm gì, trong kinh sách gọi là: vô tâm vô niệm, tức là không còn khởi tâm tham sân si, thản nhiên trước sự thịnh suy, thăng trầm của đời sống, bình thản trước những lời khen tiếng chê, vượt qua được sóng gió của cuộc đời, tức nhiên tâm sẽ được khinh an, tự tại, đó là: thiền định niết bàn.
Con người sống trên đời, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý, thường
xuyên tiếp xúc với các cảnh trần: hình ảnh, âm thanh, mùi hương, mùi vị, xúc
chạm và ký ức. Khi con người tiếp xúc với các trần cảnh, mà bị dính mắc,
tức là: trong tâm khởi niệm thương hay ghét, khen hay chê, ưa thích hay tức giận,
đều gọi là: loạn tâm vọng tâm. Không khởi bất cứ tâm niệm nào cả,
gọi là: định tâm, hay: tâm thiền định. Đây chính là cốt
tủy, là mục đích cứu kính của đạo Phật vậy.
5) Thiền sư Mã Tổ Đạo Nhất có dạy: "Tức Tâm thị Phật" hay "Phật tức Tâm, Tâm tức Phật". Nghĩa là: Tâm của chúng ta chính là Phật, Phật chính là tâm của chúng ta. Khi chúng ta hành động, nói năng hay suy nghĩ bất thiện, lợi mình hại người, tức là tam nghiệp không thanh tịnh, tâm Phật ẩn mất. Khi chúng ta hành động, nói năng hay suy nghĩ hiền thiện, lợi mình lợi người, tức là tam nghiệp thanh tịnh, tâm Phật hiển hiện. Thực là đơn giản!
Vì không chịu học hiểu giáo lý, biết bao nhiêu người gọi là Phật Tử,
tại gia hay xuất gia, tin theo đạo Phật, không khác gì ngoại đạo. Ngoại
đạo nghĩa là: tuy vẫn thờ tượng Phật, tại gia hay là tại chùa, nhưng vẫn thường
ngày ngoài tâm cầu đạo, chỉ biết lo chuyện cúng kiến lễ nghi, dâng sớ cầu an,
cúng sao giải hạn, cầu khẩn van xin, cầu nguyện khấn vái, đủ thứ mọi điều,
nhưng không hiểu không biết Phật ở nơi đâu?
Ngoài tâm không có Phật, cầu Phật ngoài tâm, là nghĩa lý gì?
Phật không ở trong chùa, không ở trong các pho tượng, bằng vàng hay bạc, bằng
đồng hay cây. Phật không ở trên mây, trên non hay trên núi. Phật
không ở dưới suối, dưới sông hay dưới biển. Chúng ta không cần phải đi
đến xứ Ấn Độ xa xôi, hay bất cứ nơi đâu, mới thấy được Phật. Phật đang ở ngay
trong tâm của chúng ta.
Tóm lại, trên cuộc đời này, dù giàu sang hay nghèo khó, dù trí thức
hay bình dân, dù nam phụ lão ấu, dù da trắng da đen hay da màu, dù vua chúa hay
dân chúng, nói chung, bất cứ người nào cũng có hai thứ bệnh: thân bệnh và tâm
bệnh. Đối với thân bệnh, chẳng hạn như đau răng, nhức đầu, sổ mũi, cảm
cúm, đau tim gan tì phế thận, con người cần tới khả năng trị bệnh của các vị
thầy thuốc, dù đông y hay tây y. Để phòng ngừa thân bệnh, có những phương
pháp tập thể dục, những cách dưỡng sinh khoa học, những chế độ ăn uống thích
ứng với từng lứa tuổi, và tình trạng sức khỏe cá nhân.
Còn đối với tâm bệnh, chẳng hạn như tâm tham sân si, tâm ganh tị đố kỵ, tâm hơn thua phải quấy, tâm thành kiến cố chấp, tâm lo âu sợ sệt, tâm loạn động bất an, con người cần phải tìm hiểu chánh pháp và áp dụng trong đời sống hằng ngày. Ngay đến Đức Phật là bậc toàn giác, trí tuệ sáng ngời, phước báu vô biên, vẫn CÓ thân bệnh, nhưng KHÔNG phiền não và khổ đau, tâm trí vẫn an nhiên tự tại, trong mọi hoàn cảnh. Nói một cách khác: Đức Phật không có tâm bệnh. Bất cứ ai sống trên đời này, còn mang thân xác con người, là còn khổ vì thân bệnh, nếu không giác ngộ được chân lý vi diệu nhiệm mầu. Các vị giáo chủ của các tôn giáo cũng có thân bệnh và rồi cũng chết như mọi người mà thôi.
Khi đứng trong một căn phòng, cầm đèn rọi ra bên ngoài, thì mình sẽ thấy rõ, biết rõ cảnh vật bên ngoài, còn bên trong căn phòng thì tối thui. Ngược lại, khi xoay ngọn đèn vào bên trong căn phòng, dĩ nhiên căn phòng sáng tỏ, một cách rõ ràng, con người có thể thấy mọi thứ đồ đạc và đi đứng không bị vấp ngã. Cũng vậy, khi phóng tâm quán sát bên ngoài, con người có thể phê phán người này đúng, người kia sai, chuyện này phải, chuyện kia quấy. Con người có thể biết chuyện khắp năm châu bốn biển, chuyện thời sự khắp thế giới, chuyện văn chương kim cổ đông tây, muôn sự mọi việc bên ngoài đều biết rõ ràng rành mạch. Trái lại, chuyện bên trong tâm trí của chính mình thì mù tịt, chẳng biết tí gì cả! Mình thực sự là ai, chẳng biết! Mình thực sự đang muốn gì, chẳng biết! Mình thực sự đang làm thiện hay bất thiện, chẳng biết! Mình thực sự đang nghĩ thiện hay bất thiện, chẳng biết! Mình thực sự sống trên đời để làm gì, chẳng biết! Mình sau này sẽ đi về đâu, nếu vẫn cứ tạo tội tạo nghiệp hằng ngày, chẳng biết! Chuyện gì thuộc về bên trong, thuộc về nội tâm, chúng ta cũng đều chẳng biết!
Cái tâm ý điên đảo đảo điên, cái vọng tưởng lăng xăng lộn xộn, tạo tội tạo nghiệp này, là nguyên nhân chính dẫn chúng ta vào vòng sanh tử luân hồi. Làm sao hàng phục và an trụ được cái tâm ý này chính là trọng tâm của đạo Phật.
Điều quan trọng trong đạo Phật chính là:
Tâm trí có dính mắc hay không dính mắc cảnh trần.
Nếu tâm dính mắc, gọi là: tâm phan duyên, tâm loạn động.
Nếu tâm không dính mắc, chính là: bản tâm thanh tịnh
vậy.
Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ
cutranlacdao@yahoo.com
THƯA HỎI PHẬT PHÁP VP.PHTQ.CANADA
BBT PHẬT HỌC TỊNH QUANG
Hỏi:
Kính Bạch Thầy,
Con thấy hiện nay, có nhiều chùa tranh đua
nhau làm LỄ TRAI ĐÀN BẠT ĐỘ CHẨN TẾ VONG LINH thu hút rất rất nhiều
Phật tử cho nên thu được lợi nhuận rất lớn, bởi vì nhà nào cũng có thân
nhân qua đời, vì nhiều lý do khác nhau.
Đã có nhiều Thầy lên tiếng cho Phật tử biết các
buổi lễ trai đàn đó là tà pháp, tà giáo, không phải Phật giáo.
Cho nên, hiện nay, nhiều chùa bày ra PHÁP
HỘI ĐỊA TẠNG hay PHÁP HỘI DƯỢC SƯ.
Tên gọi có khác, nội dung và hình thức y chang,
nhưng được giải thích đó là theo Kinh Địa Tạng, hoặc Kinh
Dược Sư
Kính xin quí Thầy PHTQ.CANADA từ bi giải thích cho
Phật tử chúng con được biết PHÁP HỘI ĐỊA TẠNG hay PHÁP HỘI DƯỢC SƯ
có đúng chánh pháp chăng?
Có chùa ở Mississauga, Canada còn làm phép vô các chai nước, phát cho các Phật tử đem về uống.
Có chùa ở Mississauga, Canada còn làm phép vô các chai nước, phát cho các Phật tử đem về uống.
Chúng con kính xin tri ân hoằng pháp của quí
Thầy và kính chúc quí Thầy tâm được kinh an, chúng sinh dị độ.
Kính,
con Phật tử Tâm An Nhiên.
lllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll
ĐÁP:
Kính thưa
quí Đạo Hữu,
Đúng như
quí ĐH đã biết, các hình thức cúng kiến trai đàn kiểu đó,
dù tên gọi là gì, cũng là tà pháp, ma pháp truyền từ tà giáo, ma giáo bên tàu,
trà trộn vào chốn thiền môn,
khiến cho đa số nhầm tưởng đó là sinh hoạt Phật giáo.
khiến cho đa số nhầm tưởng đó là sinh hoạt Phật giáo.
Đối với Kinh Địa
Tạng, người có học hiểu mới đạt được chánh pháp, bằng không sẽ hiểu
sai lạc theo chiều hướng mê tín dị đoan.
Vài hàng giải thích đơn sơ, kính mong quí ĐH tham khảo thêm nơi link:
Vài hàng giải thích đơn sơ, kính mong quí ĐH tham khảo thêm nơi link:
ĐIẠ TẠNG
VƯƠNG BỒ TÁT
From: nguyen leon
Nam mô A Di Đà Phật
Kính bạch Thầy
Con xin thành tâm tri ân vô biên đến Thầy và Pháp-Hội Tịnh Quang Canada.
Từ lâu con luôn kính tin hằng hướng theo và lĩnh hội diệu ngôn pháp hỷ
của Thầy từ bi hoằng hoá quảng đại tứ chúng trên mạng.
Nay với đoạn " PHIM VỀ ĐẠO PHẬT " rất hay, tuy đã vài lần con
đã được xem qua, nhưng lần nầy có giáo ngôn của THẦY hướng dẫn thêm, rõ hơn vì
thế xin phép kính chuyển đến quí thân hữu và con cháu trong gia đình để học và
được lĩnh hội hơn "Đạo PHẬT là đạo Từ-Bi & Trí-Tuệ" của Đức Phật
Thich-Ca Mâu-Ni.
Nay từ phương xa thành tâm đảnh lễ và kính chúc Thầy & quí chư Tôn
Đức tại Giáo-Hội Phật-Tự Tịnh-Quang, Pháp-Thể khinh-an chúng-sinh dị-độ, Phật-đạo
viên-thành, đồng kính chúc chư thiện-hữu tri thức tại Pháp-hội thân tâm
thường-tinh tấn tu học kiên trì hộ trì Tam-Bảo.
Nam
mô A Di Đà Phật
Quảng-Thanh Pháp-quốc
Quảng-Thanh Pháp-quốc
Thành
kính
llllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll
Kính thưa quí ĐH,
Trước hết, VP.PHTQ.CANADA kính cảm tạ quí ĐH đã góp ý kiến.
Đối với đạo Phật, tùy duyên mỗi người chọn cho mình một đường lối tu, thích hợp với căn cơ, trình độ, hoàn cảnh, sở thích, tâm nguyện. Trải qua hơn hai ngàn năm, hiện nay, Phật giáo trên thế giới còn truyền lại ba tông phái chính là: Tịnh Tông, Mật Tông và Thiền Tông.
Đó là ba tông phái có cách thực hành khác nhau.
Ngoài ra, do sự truyền thừa theo địa lý, còn chia ra 2 dòng truyền gọi là:
1. Bắc truyền (còn gọi là Bắc Tông, hay Đại Thừa, hay Phát Triển)
2. Nam truyền (còn gọi là Nam Tông, hay Tiểu Thừa, hay Nguyên Thủy)
Từ đó, có sự tranh chấp trong phương cách tu tập giữa các Tông phái hay hệ phái truyền thừa nói trên.
Kính thưa quí ĐH,
Trước hết, VP.PHTQ.CANADA kính cảm tạ quí ĐH đã góp ý kiến.
Đối với đạo Phật, tùy duyên mỗi người chọn cho mình một đường lối tu, thích hợp với căn cơ, trình độ, hoàn cảnh, sở thích, tâm nguyện. Trải qua hơn hai ngàn năm, hiện nay, Phật giáo trên thế giới còn truyền lại ba tông phái chính là: Tịnh Tông, Mật Tông và Thiền Tông.
Đó là ba tông phái có cách thực hành khác nhau.
Ngoài ra, do sự truyền thừa theo địa lý, còn chia ra 2 dòng truyền gọi là:
1. Bắc truyền (còn gọi là Bắc Tông, hay Đại Thừa, hay Phát Triển)
2. Nam truyền (còn gọi là Nam Tông, hay Tiểu Thừa, hay Nguyên Thủy)
Từ đó, có sự tranh chấp trong phương cách tu tập giữa các Tông phái hay hệ phái truyền thừa nói trên.
Thực ra chỉ có những người thành kiến cố chấp, kiến thức hẹp hòi, năng lực tu tập kém cỏi, dù tại gia hay xuất gia, mới lên tiếng khích bác hay công kích nhau mà thôi. Muốn tu thì phải học. Người tu theo đạo Phật cần nên ra sức tìm hiểu tất cả các tông phái, trước khi quyết định chọn cho mình con đường thích hợp để tu tập. Người thích niệm Phật thì chọn Tịnh Tông. Người thích niệm chú thì chọn Mật Tông. Người thích tu thiền thì chọn Thiền Tông. Tuy nhiên, tất cả các điều nói trên chỉ là các cách thực hành mà thôi.
Trước khi thực hành, người tu theo đạo Phật phải nắm vững giáo lý (lý thuyết).
Giáo lý đạo Phật bao gồm 37 phẩm trợ đạo (tứniệm xứ, tứ chánh cần, tứ như ý túc, ngũ căn, ngũ lực, thất giác chi, và bát chánh đạo). Người nào chưa hiểu thấu rõ chánh đạo (giáo lý hay 37 phẩm trợ đạo) mà bàn chuyện tu hành, là người nằm mơ - chắc chắn sẽ lạc vào tà đạo.
Dù chọn con đường thực hành tu tập theo Tịnh Tông, Mật Tông hay Thiền Tông, người tu theo đạo Phật phải hiểu mục đích cứu cánh (hay cốt tủy của đạo Phật) là đạt được Bản Tâm Sáng Suốt, Chân Chánh và Thanh Tịnh (Giác Ngộ và Giải Thoát). Khi thực hành việc tu tập, phải cố gắng với tất cả nổ lực để đạt được mục đích cứu cánh nói trên, chứ không thể thực hành qua loa 10 câu niệm Phật, trì chú hay ngồi thiền, rồi hẹn kiếp sau tu tiếp. Hẹn kiếp sau tu tiếp là cách của các nhà tu lười biếng (giải đãi) truyền lại cho những người tu ít, mà muốn hưởng nhiều tối đa: vãng sanh tây phương cực lạc.
Tại sao con người không nổ
lực tu rốt ráo ngay trong kiếp này? Những người mang tâm cố chấp như vậy, dù
sanh về cõi nào, cũng chỉ cảm nhận phiền não và khổ đau mà thôi, bởi chưa giác
ngộ được gì và chẳng giải thoát được gì. Ví như cái đít ly bị dơ, dời đi nơi nào
cũng làm dơ nơi đó - nếu không lau cho sạch trước khi dời đi. Tâm con người còn
tràn đầy nghiệp chướng (tham, sân, si) dù có được lên cõi tịnh độ (chỗ sạch) cũng
làm cho nơi đó trở thành uế độ (chỗ dơ).
Không nên hạ thấp giá trị của đạo Phật bằng cách nói năng hay suy nghĩ như sau:
chỉ cần niệm Phật, niệm chú hay ngồi thiền,
là đủ rồi - không cần kinh sách (giáo lý).
Tại sao vậy? - Bởi lẽ, đức Phật Thích Ca Mưu Ni giảng dạy bao nhiêu kinh
điển (giáo lý) - tất cả đều là vô dụng, không cần học hiểu sao? Thêm nữa, nếu
không học hiểu sâu rộng giáo lý, làm sao người tu biết được chính xác đâu là
lời Phật dạy, đâu là lời người sau thêm thắt, thêu dệt? Như vậy, làm sao phân
biệt chánh đạo và tà đạo, chánh kiến và tà kiến, chánh pháp và tà pháp?
Nhiều nhà tu rao giảng: đây là lời Phật Thích Ca nói, chắc thật không sai, ai nghi ngờ phải mang tội. Người nào không rành giáo lý chắc chắn là tin ngay, không dám nghi ngờ, sợ mang tội. Thế là có người gạt gẫm và có người bị gạt gẫm. Thật đáng tiếc. Thật đáng buồn.
Ngoài ra còn có vấn đề Phật giả, Pháp giả và Tăng giả. Nếu không có nghiên cứu, không học hiểu giáo lý (kinh điển), thì làm sao người tu nhận ra, đâu là Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng) thật? Ngay trong Phật giáo, có nhữngđiều, có nhiều điều, tông phái này công nhận, các tông phái khác không công nhận. Đâu là chân lý? Đâu là gạt gẫm?
Tóm lại, con đường tu tập không phải quá khó khăn, nhưng không dễ nhận ra chân lý (chánh pháp).
Tùy tâm con người, sẽ có phương pháp tu tập (pháp môn) tương ứng, thích ứng. Tâm con người chân thật sẽ gặp Tam Bảo thật, pháp tu thật (tu tâm). Tâm con người giả tráđiêu ngoa, lười biếng, tham lam ích kỷ, tức sẽ gặp tam bảo giả (tu tướng).
Kính mong quí vị lắng lòng, gạn lọc thân tâm, quán sát nội tâm, tìm được chân lý (lẽ phải). Đạo Phật phải hội đủ hai yếu tố: Từ Bi &Trí Tuệ.Thiếu một trong hai điều này, chưa phải, hay không phải làđạo Phật.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mưu Ni Phật.
Kính thư,
Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ
CHUYỆN TU HÀNH
(Trích: PHẬT HỌC TỊNH QUANG SỐ 16)
-
Hỏi: Thưa Thầy, tôi có nghe câu nói: Thứ nhứt thì tu tại gia. Thứ nhì tu chợ, thứ
ba tu chùa.
Vô
chùa tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền, thọ bát, bái sám, thì đúng là tu rồi, dễ
hiểu quá. Còn tu tại gia, tu tại chợ là làm sao, thế nào, kính xin Thầy từ bi
chỉ dạy cho. Cám ơn Thầy trước.
- Đáp: Thông thường, ai cũng nghĩ vô chùa mới gọi là tu thì quả thật không sai. Nhưng
chưa hẳn hoàn toàn đúng.
Người
thường đi chùa, hoặc cạo tóc ở luôn trong chùa, nếu không tu sửa tâm tánh, vẫn
tham lam, vẫn sân hận, vẫn si mê, có khi còn làm phách, dè bĩu, hay khinh khi
người khác không biết tu như mình, rủa xả, mắng nhiếc người khác đọa địa ngục,
phê phán không căn cứ, phỉ báng không tiếc lời, thích ăn trên ngồi trước, giành
miếng ngon, lựa chỗ tốt, thì không gọi là tu được. Có chăng đó chỉ là hình
tướng người tu, dù tại gia hay xuất gia, gọi là tu tướng mà thôi.
Còn
tu tại gia, tu tại chợ thì rộng rãi hơn, chiếm toàn bộ thời gian trong một
ngày, dù là người tại gia hay xuất gia. Lúc nào cũng tự xem xét, hôm nay mình
có làm tổn thương ai qua hành động, lời nói và trong tư tưởng.
Chẳng hạn như tại chợ, mình có để xe nghinh ngang giữa đường, bất kể người khác
có đi qua được hay không. Chẳng hạn như tại gia, mình có ngồi coi TV chờ ông
chồng (hay bà vợ) mời ăn cơm, ăn xong coi TV tiếp, không phụ giúp làm cơm,
không phụ giúp dọn bàn, dọn dẹp, rửa chén bát, có khi lại ỷ mình là người làm
ra tiền, nuôi cả nhà!
Tóm
lại, tu tâm dưỡng tánh, hôm nay mình tốt hơn chính mình hôm qua, đó mới chính
thực là tu.[]
Ban Biên Tập. PHẬT HỌC TỊNH QUANG.
CHỦ NHIỆM: TỲ KHƯU THÍCH CHÂN TUỆ
CHỦ NHIỆM: TỲ KHƯU THÍCH CHÂN TUỆ
CHUYỆN TRONG CHÙA
(Trích: Tập san Từ Bi Trí tuệ)
(Trích: Tập san Từ Bi Trí tuệ)
Hỏi:
- Thưa Thầy, tôi nghe nói hùn phước in kinh sách ấn tống, phát
hành băng giảng, được rất nhiều công đức thù thắng, cho nên có nhiều cá nhân
cũng như tổ chức, chùa viện quyên góp thực hiện. Tuy nhiên, tôi thấy trong
nhiều chùa, số lượng kinh sách, băng dĩa phát không, tràn ngập, bỏ bừa bãi,
không trang nghiêm. Trong đó có quá nhiều kinh sách, băng giảng không có nội
dung tốt, thậm chí mê tín dị đoan, sai lạc giáo lý, chẳng những không lợi ích
gì, còn góp sức truyền bá tà pháp. Kính mong quí Thầy cho biết tôn ý về vấn đề
này.
Đáp:
- Các dạng bố thí gồm
có: tài thí, pháp thí và vô úy thí. Tài thí có: ngoại tài (tiền bạc, của cải),
và nội tài (các bộ phận của cơ thể). Pháp thí là bố thí chánh pháp, giúp người
hiểu rõ chánh đạo, chánh kiến, chánh tín, sự thật của cuộc đời, để sống đời
được an lạc và hạnh phúc, hơn nữa, đạt được giác ngộ và giải thoát. Và vô úy
thí là giúp người vượt qua cơn sợ hãi, sợ chết, sợ đủ mọi thứ, ổn định được tâm
bất an.
Trong các dạng bố thí
vừa kể, bố thí pháp thù thắng nhất. Bởi lẽ, chánh pháp giúp đỡ con người trong
kiếp này được khai mở trí tuệ, tránh tà pháp và mê tín dị đoan, biết tu tâm
dưỡng tánh theo đúng chánh đạo, tránh tà đạo, nhận rõ tà sư và tà pháp. Cao cả
nhất là chánh pháp giúp con người thoát ly được phiền não khổ đau trong sanh tử
luân hồi.
Đúng như quí Đạo Hữu nhận xét, hiện nay tình trạng ấn tống kinh sách, băng dĩa rất được hưởng ứng, bởi nhiều lý do. Lý do trước hết là nhiều người hiểu rằng bố thí pháp (hùn phước ấn tống kinh sách, băng thuyết pháp) có công đức và phước đức trên tất cả các dạng bố thí khác. Hoặc, có nhiều người cầu khẩn, van xin, khấn vái điều gì đó cho gia đình hay cho công việc làm ăn, buôn bán, bèn bỏ ra chút tiền để in các loại gọi là “kinh sách” để hối lộ thần linh trước, cho được việc mình mong cầu.
Họ đâu biết rằng các
loại sách rẻ tiền, các loại băng giảng tạp nhạp, hình thức bề ngoài có vẻ như
đạo Phật, do chính các chùa in, các nhà sư giảng, nhưng nội dung rất phi chánh
pháp, cho nên vô tình góp phần truyền bá tà pháp, mê tín dị đoan, làm cho nhiều
người ngộ độc, tin theo, rất tai hại.
Chẳng hạn trước đây vài
năm, có người góp tiền in sách Niệm Phật vãng sanh lưu xá lợi. Nghe qua có vẻ
Phật pháp, nhưng nội dung chứa đựng, xen lẫn nhiều tà pháp. Người không học
hiểu giáo lý, không nghiên tầm kinh điển, kể cả một số nhà sư già cũng như trẻ,
rất dễ nhầm lẫn, ngộ nhận rồi ngộ độc, và đem truyền bá nọc độc cho nhiều người
khác.
Thêm nữa, có vô số sách
thuộc loại tà pháp, mê tín dị đoan, được in và bỏ bừa bải trong các chùa như:
Bạch Y Thần Chú, Linh Cảm Thần Chú, Pháp Sám Đại Bi, Kinh Di Lặc cứu đời, Kinh
Cứu khổ, Địa Mẫu chơn kinh, Kinh Hoàng Mẫu, Những điều linh ứng, Lời Nguyện,…
Các vị trụ trì chân tu thực học không phổ biến các loại sách nhảm này
trong phạm vi hoằng pháp và các vị Phật tử chân chánh không góp phần tội nghiệp
in phát hành hay phổ biến các loại sách này. Chúng
ta nên nhớ: nếu cầu nguyện mà được linh ứng (hữu cầu tắc ứng) thì trái với lý
nhân quả nghiệp báo.
Mình làm mình hưởng.
Mình làm mình chịu.
Ban Biên Tập PHẬT HỌC TỊNH QUANG CANADA
Chuyện Trong Đời
- Hỏi : Thưa Thầy, xin
Thầy từ bi chỉ dạy để con người cảm nhận được hạnh phúc trên đời này, dù cuộc
đời quá nổi trôi, đầy sự bất như ý.
- Đáp: Con người thường
có đủ 3 tâm: tham, sân và si.
Khi tâm tham nổi
lên, con người cảm thấy thiếu thốn, chưa đủ, muốn thêm, dù cho nhiều người đã
có tiền rừng bạc biển trong tay. Có nhiều người mãi mê chạy theo lợi và danh
cho đến ngày nhắm mắt xuôi tay vẫn chưa thấy đủ.
Cho nên, con người
muốn cảm nhận được hạnh phúc trong cuộc sống cần phải biết đủ (tri túc).
Sách có câu:
Tri túc tiện túc
đãi túc hà thời túc.
Tạm hiểu:
Biết đủ thời đủ
đợi đủ khi nào đủ.
Nghĩa là: Khi nào
đủ ăn, đủ mặc, không đói rách, con người thấy biết là đủ thì ngay khi đó có
hạnh phúc.
Với tâm tham, đợi
kiếm thêm nhiều nữa mới cho là đủ thì khó hưởng hạnh phúc vì sẽ không bao giờ
cho là đủ.
Có lời khuyên:
trong đời con người nên nhìn xuống sẽ cảm nhận hạnh phúc vì có biết bao nhiêu
người khác không bằng mình. Lúc đó con người sẽ phát tâm cứu người giúp đời,
tạo phước báu. Nếu con người nhìn lên sẽ thấy có biết bao nhiêu người hơn
mình, cho nên không cảm nhận được hạnh phúc. Tóm lại, khi tâm cảm thấy biết
đủ, con người sẽ cảm nhận được hạnh phúc ngay trong tầm tay.
Khi tâm sân hận nổi lên, con người cảm thấy bị xúc phạm bị khinh khi, bèn khởi tâm trả đủa trả thù, cho nên không cảm nhận được hạnh phúc. Muốn dẹp bỏ tự ái hay giảm bớt tâm sân hận, con người cần quán chiếu đó chính là bản ngã. Bản ngã chính là nguồn gốc của phiền não khổ đau trên đời, sao có thể cảm nhận được hạnh phúc?
Tóm lại, muốn cảm nhận được hạnh phúc, con người cần nên quán chiếu biết đủ và tập sống theo vô ngã (dẹp bỏ tự ái xằng). Dĩ nhiên như vậy là sống ngược không theo dòng đời thường.[]
VP. PHAT-HOC TINH-QUANG CANADA
Kính mời viếng thăm
llllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll
THÔNG BÁO
PHẬT HỌC TỊNH QUANG KÊU GỌI ẤN TỐNG KINH SÁCH
Văn Phòng
Phật Học Tịnh Quang Canada trân trọng kêu gọi quí vị thân hữu, đạo hữu hảo tâm
gần xa hùn phước và giúp đỡ, việc ấn tống kinh sách hữu ích cho
quí Phật tử tại
gia tu học.
Văn-Phòng
Phật-Học Tịnh-Quang Canada ấn tống và phát hành miễn phí
Tập san
Từ Bi & Trí Tuệ, 3 số mỗi năm, vào các dịp sau:
Tết Nguyên Đán,
Đại Lễ Phật Đản,
Đại Lễ Vu Lan.
Quí vị có
thể nhận miễn phí nơi các chùa, các tòa soạn báo, các Bác sĩ, Nha sĩ, Dược sĩ
hay các cơ sở thương mại tại Toronto, Brampton, Hamilton, Montréal.
Số lượng
nhiều nhất Phố Tàu Toronto tại tiệm Tạp Phong 360 Spadina Ave.
Quí vị
muốn nhận tập san qua bưu điện xin ủng hộ cước phí, gửi về địa chỉ sau đây:
Tỳ-Khưu
Thích-Chân-Tuệ
Chủ-Nhiệm
PHẬT-HỌC TỊNH-QUANG CANADA
108 - 123
Railroad St.,
Brampton, ON, L6X-1G9, Canada.
Tel: 647-828-1016
Brampton, ON, L6X-1G9, Canada.
Tel: 647-828-1016
Kính thư,
VP.PHAT-HOC
TINH-QUANG CANADA
Thế Nào Là Thượng Tọa
Thuở ấy, đức Thế Tôn đang ngự tại tinh xá Kỳ Viên. Mai sớm, có 10 vị tỳ kheo từ
Câu Thi Na đến yết kiến Ngài. Lúc mới vào tinh xá, nhóm sa môn này gặp một chú
tiểu ra vái chào. Sau khi đảnh lễ đức Thế Tôn, đoàn sa môn lui ngồi một bên.
Phật hỏi họ:
-
Sáng giờ, các thầy có gặp một vị Thượng Tọa vừa rời khỏi nơi đây không?
Các
thầy sa môn đồng thưa: - Bạch Thế Tôn, không ạ!
-
Các thầy không gặp ai cả sao?
- Bạch Thế Tôn, chúng con có gặp một chú tiểu chưa đến 20 tuổi.
- Bạch Thế Tôn, chúng con có gặp một chú tiểu chưa đến 20 tuổi.
-
Này các tỳ kheo! Vị ấy không phải là một chú tiểu. Ðó chính là bậc Thượng Tọa
mà ta muốn nói.
-
Nhưng, chú ấy còn quá trẻ, bạch Thế Tôn.
-
Này các tỳ kheo! Ta không gọi ai là Thượng Tọa vì tuổi tác, vì họ được ăn trên
ngồi trước, hay họ xuất thân từ dòng dõi danh gia vọng tộc. Chỉ có người nào
thấu đạt chánh pháp, cư xử tốt với mọi người, ta mới gọi vị ấy là Thượng Tọa.
SUY NGẪM
Gọi
là bậc trưởng lão, đâu phải căn cứ trên tuổi tác già nua? Bởi vì đó chẳng qua
chỉ là tấm thân già yếu, râu tóc bạc phơ, rút cục chỉ là hạng giả danh ngu xuẩn
mà thôi.
Sở
vị trưởng lão
Bất
tất niên kỷ
Hình
thục bạch phát
Xuẩn
ngu nhi dĩ.
Dù
tuổi cao mày bạc
Không
tịnh hạnh tu trì
Tôn
xưng là trưởng lão
Danh
suông nghĩa lý gì?
(Kinh
Pháp Cú 260)
Những
người chân tu thực học, giữ gìn tâm tính nhân từ, sáng suốt, cư xử rất mực từ
bi & trí tuệ, khắp nơi cảm thấy thanh lương khi thân cận, thiền môn phát
triển, nhiều người tìm tới nương tựa. Thế mới xứng danh là bậc trưởng lão trong
chốn thiền môn.
Vị
hoài chánh pháp
Thuận
diệu từ nhân
Minh
đạt thanh khiết
Thị
vi trưởng lão
Nghiã
là:
Những
ai thấu chánh pháp
Tự
điều phục thân tâm
Thanh
tịnh và sáng suốt
Xứng
đáng là trưởng lão.
(Kinh
Pháp Cú 261)
Trong kho tàng kinh
điển của Phật giáo, danh & thực là hai phạm trù thường được đề cập,
phân tích cặn kẻ. Danh là tên gọi, hình thức bên ngoài. Thực là
phẩm chất, nội dung bên trong.
Danh là một trong năm món dục được chúng sanh ưa
thích, tham đắm cần phải loại trừ (tài, sắc, danh, thực, thùy).
Thực là nội dung của giác ngộ giải thoát, mỗi
người phải phấn đấu để chứng đạt.
Cả hai phương diện này
nếu tương ưng nhau thì thật là tốt. Nếu có thực mà không danh thì càng hay,
nhưng có danh mà không thực thì quả là tai họa.
Thí dụ: các vị có danh
Hòa Thượng, Thượng Tọa, lại nắm giữ các trọng trách trong nhà chùa, nhưng thực
chất do bè phái, sống lâu lên lão làng, không thực tâm hoằng pháp lợi sanh,
không thực tâm tu dưỡng, cư xử tàn độc với đồng môn, tự tôn tự đại, tai hại vô
cùng!
Thời Đức Phật, các bậc
đạo cao, đức trọng thường được tôn xưng là Thượng Tọa, là Trưởng Lão. Vì thế,
hàng thượng tọa rất được Tăng chúng và tín đồ cung kính, nể trọng, cúng dường
hậu hỷ, đồng thời các Ngài là bậc lãnh đạo, mô phạm trong đại chúng, nên luôn
được Phật ca ngợi, tán thán.
Cũng vì sự trọng vọng
này mà không ít người chưa điều phục được tâm tham danh, cũng mong ước bước lên
hàng thượng tọa, cầu đắc lợi lộc, thích được cung kính, say mê danh vọng.
Đức Thế Tôn biết rõ người
đời sau phước mỏng nghiệp dầy, đam mê danh vọng, cho nên Ngài dạy: Thượng Tọa
là bậc đã thấu được Chánh Pháp, cư xử tốt với mọi người (từ bi & trí tuệ
viên dung), chứ không vì tuổi tác hay nguồn gốc xuất thân. Một chú tiểu nếu
xứng đáng cũng được gọi là Thượng Tọa.
Thời nay, các danh
xưng như chú Tiểu, Đại Đức, Thượng Tọa, Hòa Thượng cũng chỉ là để có tôn ti
trật tự trong thiền môn. Các danh xưng vốn chẳng có giá trị hay liên hệ nào đối
với nội tâm an tịnh, tuệ giác và sự tự tại giải thoát cả. Ai ăn nấy no, ai
tu nấy chứng. Nhưng dù sao thì mỗi người cũng cần phải có một hư danh để
phân biệt với các hư danh khác.
Như thế, nếu thực nội
tâm tu dưỡng chưa xứng với danh xưng cao, thì điều phải làm chính là: tự phản
tỉnh, tự vấn lương tâm, tự tàm quí, tự hổ thẹn, hơn là vỗ ngực xưng danh và tự
mãn vui mừng. Ai cũng biết danh xưng là giả huyễn, tự phong hoặc người khác
phong cho cũng vậy thôi, nhưng lâu ngày thấy đó là thật, nguy hiểm vô
cùng.
Về hình thức, chú Tiểu
và Thượng Tọa tuy có khác nhau, nhưng nội dung bất khả tư nghì. Vì thế, khi
biết rõ về cái giả danh không thật, người có tâm cầu pháp, muốn giác ngộ
chân lý vô thượng, phải luôn phấn đấu cho xứng đáng, xứng danh là người có
tuệ giác biết buông xả, không dính mắc, vượt qua hết thảy các pháp - dù
thực hay giả.
Tóm lại, các vị phát
tâm xuất gia tu hành, các vị phát tâm tu tập tại gia, đã coi thường mọi thứ
danh lợi, địa vị của thế gian thì quan trọng gì chuyện xưng hô, tranh hơn thua
chi lời nói, quan tâm chi chuyện ăn trên ngồi trước, đi trước đứng sau, tranh
chấp danh tiếng, tranh cãi lợi dưỡng, tranh giành địa vị, đòi hỏi chức vụ, nếu
có, trong nhà đạo. Đồng quan điểm hay không, được cung kính hay không, xưng hô
đúng phẩm vị hay không, chẳng đáng quan tâm, không nên tranh cãi. []
Ban Biên-Tập PHTQ.
ĂN TẾT ĂN CHAY HAY ĂN
MẶN
DỌN KHO ĂN TẾT
AN LẠC VÀ HẠNH PHÚC
DÂNG SỚ CẦU AN CÚNG
SAO GIẢI HẠN
NHẤT CHI MAI
Ý NGHĨA CÔNG ĐỨC VÀ
PHƯỚC ĐỨC
XUÂN DI LẶC