TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)

TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)
TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)

Friday 2 October 2015

***NHỨT THIẾT DUY TÂM TẠO




Tôi mong tất cả Tăng Ni là người lãnh đạo Phật tử, quí vị đi và dẫn dắt Phật tử cùng đi đúng theo con đường đức Phật đã đi.
Đừng đi sai, đừng đi lệch, uổng một đời tu, không biết mai kia có gặp lại Phật pháp không?
Làm sao chúng ta đứng vững và luôn luôn không bị những luồng gió nhơ nhớp của thế gian
làm lem luốc,
phải trong sạch vững vàng trên con đường đạo. Đó là chỗ tha thiết mong mỏi của tôi.
HT Thích Thanh Từ
lllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll



 NHỨT THIẾT DUY TÂM TẠO
TK THÍCH CHÂN TUỆ

1) Trong Kinh Hoa Nghiêm, Đức Phật có dạy:  "Nhứt thiết duy tâm tạo".
Nghĩa là: Mọi sự mọi việc đều do tâm tạo ra tất cả. Công đức cũng do tâm tạo, nghiệp chướng cũng bởi tại tâm. Đó chính là tâm sanh diệt, lăng xăng lộn xộn, thay đổi luôn luôn, thường do tham sân si chi phối, thúc đẩy, điều khiển, cho nên con người thường tạo nghiệp bất thiện nhiều hơn là nghiệp thiện. Chúng ta đã thấu hiểu lý lẽ chân thật của cuộc đời là: vô thường, không có gì tồn tại vĩnh viễn, không có gì là tự nhiên sanh mà không có nguyên nhân. Luật nhân quả áp dụng trong ba thời: quá khứ, hiện tại, vị lai. Sanh sự thì sự sanh. Nhân nào thì quả nấy. Gieo gió thì gặt bảo. Có lửa thì có khói. Cầu nguyện với tâm lăng xăng lộn xộn, chỉ đem lại sự bình an tâm trí tạm thời. Bình an thực sự chỉ có cho người thiện tâm. Thiên đàng, địa ngục, tuy là hai tâm trạng khác nhau, nhưng thực sự, tất cả chỉ là các trạng thái ở trong tâm của chúng ta mà thôi. Bởi vậy cho nên, có bài kệ như sau:

Tội tùng tâm khởi tương tâm sám  
       Tâm nhược diệt thời tội diệc vong
                  Tội vong tâm diệt lưỡng câu không          
Thị tắc danh vi chân sám hối.
dịch là:
Tội từ tâm khởi đem tâm sám
Tâm đã diệt rồi tội cũng vong
Tội vong tâm diệt cả hai không
Đó chính thực là chân sám hối.

Nghĩa là: Tất cả những tội lỗi gây ra, đều do tâm chúng ta chủ động, thì phải thành tâm mà sám hối, tự trong thâm tâm. Từ đó, chúng ta phát nguyện không tái phạm, cho nên mỗi khi tâm tham, tâm sân, tâm si khởi lên, chúng ta liền biết ngay, dừng lại, không làm theo sự điều khiển, sai khiến của tham sân si, thì tội lỗi sẽ không còn tái phạm nữa.  Khi tội lỗi không còn, tâm sanh diệt cũng lặng mất, con người sống trong trạng thái tịch tịnh, bình yên của tâm trí.  Đó mới thực là sự sám hối chân chánh.
 
2) Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Đức Phật có dạy: "Tùy tâm biến hiện".
Nghĩa là: Mọi sự mọi việc trên thế gian này như thế nào, tốt hay xấu, lành hay dữ, đúng hay sai, phải hay quấy, được hay không, đều do vọng tâm của chúng ta biến hiện ra cả.  Sự cảm thọ tùy theo tâm trạng, tùy theo cá nhân, không ai giống ai, không lúc nào giống với lúc nào, không thời nào giống với thời nào, không nơi nào giống với nơi nào. Trong sách có câu:

“Tâm buồn cảnh được vui sao
Tâm an dù cảnh ngộ nào cũng an”.
Nghĩa là: Cùng một cảnh vật như vậy, nếu có tâm sự buồn phiền áo não, chúng ta không thấy cảnh vui chút nào. Còn nếu chúng ta có tâm trạng hân hoan vui vẻ, dù cây khô trụi lá, cảnh vẫn đẹp vui như thường. Cái tâm hân hoan vui vẻ là chúng ta, hay cái tâm buồn thảm lê thê là chúng ta?  Cùng một câu nói như vậy, nếu tâm an ổn, vui vẻ mát mẻ, chúng ta cũng cho là: nói đúng nói phải, nói sao cũng được, nói ngược cũng xong. Trái lại, tâm đang bực bội, ai nói câu nào, chúng ta cũng cho là: nói sai nói bậy, nói xiên nói xỏ, nói bóng nói gió, nói hành nói tỏi, nói quấy nói quá.  Vậy, hãy thử nghĩ xem, chúng ta là người: có tâm thực tốt, hay tâm không tốt?  Cái tâm sanh diệt, lăng xăng lộn xộn, thay đổi bất thường như vậy, thực không phải là chúng ta. 

3) Trong Kinh A Hàm, Đức Phật có dạy: "Tam giới tâm tận, tức thị niết bàn". 
Nghĩa là: Khi nào dứt sạch tâm trong ba cõi, lúc đó chúng ta mới thấy được niết bàn. Ba cõi, còn gọi là tam giới, đó là: dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Khi tâm tham nổi lên, chúng ta sống trong dục giới, tức là cảnh giới đắm nhiễm tham dục, cảm thấy đau khổ triền miên vì lòng tham của con người không đáy, không bao giờ thỏa mãn được. Con người sống trong dục giới lúc nào cũng cảm thấy khao khát, thiếu thốn, được bao nhiêu cũng không thấy đủ, cho nên luôn luôn chạy đôn chạy đáo, tìm kiếm ngũ dục: tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống và ngủ nghỉ. Khi tâm sân nổi lên, ngay lúc đó, chúng ta sống trong sắc giới, tức là cảnh giới chấp chặt sắc tướng, lòng như thiêu đốt, sắc mặt tái xanh, vì sự tức giận, vì sự bất mãn. Dù tâm tham không còn, tâm sân cũng tai hại vô cùng.

4) Trong Kinh Hoa Nghiêm, Đức Phật có dạy:  
"Nhất niệm sân tâm khởi, bách vạn chướng môn khai". 
Nghĩa là: Một khi tâm niệm tức giận, sân hận khởi lên mà chúng ta không tự kềm chế, không tự khắc phục, thì biết bao nhiêu, trăm ngàn vạn chuyện khó khăn, đau khổ, chướng ngại tiếp nối theo sau đó. Khi tâm si nổi lên, chúng ta sống trong vô sắc giới, tức là cảnh giới vô minh, rất dễ lầm đường lạc nẽo, mê tín dị đoan, rất dễ dàng tạo tội tạo nghiệp bằng cách: hãm hại trả thù, lập mưu tính kế, vu khống cáo gian, thưa gửi kiện tụng, không cần biết hậu quả khổ đau đối với các người khác và gia đình họ. Những giây phút ngu si, lầm lẫn thường là nguyên nhân của những sự hối tiếc, đau khổ sau đó, cho mình và cho người khác, có khi kéo dài triền miên suốt cả cuộc đời. Bởi vậy cho nên, phải dẹp trừ tận gốc các tâm tham sân si, trong kinh sách gọi đó là: tam độc, chúng ta thoát ly tam giới gia, cuộc sống mới an lạc và hạnh phúc.

5) Trong Kinh A Di Đà, Đức Phật có dạy: "Người nào giữ được nhứt tâm bất loạn, trong một ngày cho đến bảy ngày, khi lâm chung giữ tâm không điên đảo, thì người đó được vãng sanh tây phương".

6) Trong Kinh Đại Tập, Đức Phật có dạy: "Nếu thường xuyên giữ được chánh niệm, tâm không loạn động, dứt trừ được phiền năo, thì chẳng bao lâu đắc thành quả vô thượng bồ đề". Nghĩa là: Người tu tập phải luôn luôn quán sát tâm chính mình, luôn luôn giữ gìn chánh niệm, luôn luôn niệm Phật, khi vọng tâm vọng tưởng vọng thức vọng niệm khởi lên, liền biết, không theo.  Nhờ đó tâm được an nhiên tự tại, không loạn động, dứt trừ được phiền não, gọi là: nhứt tâm bất loạn Nhờ công phu tu tập đó, chẳng bao lâu đắc thành quả vô thượng bồ đề.  Khi lâm chung giữ được tâm không điên đảo, cho nên được vãng sanh cảnh giới tịnh độ.  Muốn làm được điều này, muốn giữ được tâm trí nhứt như không loạn động, con người phải thấu hiểu và thực hành quán tứ niệm xứ, gồm có: thân, thọ, tâm, pháp. 


7) Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Đức Phật có dạy: 
"Căn bản của sanh tử luân hồi là: Vọng tâm". 
"Căn bản của bồ đề niết bàn là: Chân tâm". 


Nghĩa là: Chúng sanh sở dĩ bị trầm luân sanh tử, bởi vì suốt ngày này qua ngày nọ, luôn luôn sống với vọng tâm, tức là tâm lăng xăng lộn xộn, luôn luôn thay đổi, khi vui khi buồn, khi thương khi ghét, khi khen khi chê, khi tán thán khi phê phán. Muốn tâm trí sáng suốt thanh tịnh, an nhiên tự tại, chúng ta cần quán sát tâm chính mình: khi các vọng tâm nổi lên, chúng ta liền biết, không theo, như vậy vọng tâm lắng xuống, diệt mất, chân tâm hiện ra rõ ràng. 

Muốn làm được điều này, muốn chân tâm hiển hiện, chúng ta cần phải thấu hiểu và tu tập bốn tâm rộng lớn, trong kinh sách gọi là tứ vô lượng tâm, đó chính là: từ, bi, hỷ, xả. Khi có tâm từ và tâm bi, chúng ta sẽ dễ cảm thông với muôn loài, nhứt là với loài người, với những người chung quanh, gần như cha mẹ, vợ chồng, con cháu, xa hơn như bà con, láng giềng, bạn bè. Do đó tâm giận tức, tâm sân hận có thể giảm bớt, nhẹ bớt đi. Khi có tâm hỷ và tâm xả, chúng ta sẽ bớt được các tâm ganh tị, tâm đố kỵ, tâm hơn thua, tâm cố chấp.  Cho đến khi nào tứ vô lượng tâm trọn đầy, vọng tâm tan biến, tâm ý trở nên an nhiên tự tại, chân tâm hiển hiện. 
Đây mới chính là ý nghĩa thiết yếu của việc tu tâm dưỡng tánh theo đạo Phật:

Trong tâm khởi niệm, nếu giác kịp thời, liền biết không theo, đó là: chân tâm.
Trong tâm khởi niệm, nếu còn mê muội, không giác kịp thời, liền theo niệm đó, trở thành: vọng tâm.
Cũng ví như là: Khi có gió thổi, mặt biển nổi sóng, gọi là biển động, ví như tâm lăng xăng lộn xộn. Mặc dù có gió thổi, mặt biển vẫn bình yên, đó là biển thái bình, ví như bản tâm thanh tịnh, hay tâm bình thường.

8) Trong Kinh Tịnh Danh, Đức Phật có dạy: "Mặt trời mặt trăng vẫn thường sáng tỏ, tại sao người mù lại chẳng thấy?  Cũng vậy, bởi vì nghiệp thức che đậy, chúng sanh thường biết mà cố phạm, cho nên chẳng thấy thế giới Như Lai thanh tịnh trang nghiêm, chẳng nhận ra bản tâm thanh tịnh thường hằng".

9) Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, Đức Phật có dạy: 
"Tất cả chúng sinh đều có bản tâm thanh tịnh". 
"Chúng sinh chẳng nhận thấy được, vì bị vô minh che lấp".
Nghĩa là: Con người ai ai cũng có bản tâm thanh tịnh, cũng như mặt trời mặt trăng luôn luôn sáng tỏ. Chỉ vì tâm tham lam của cải tiền bạc, hoặc vì tâm sân hận tự ái cao độ, hoặc vì tâm si mê cố chấp, ví như mây đen che lấp mặt trời mặt trăng, cho nên con người mới tạo tội tạo nghiệp, làm cho tâm trí loạn động, thường xuyên bất an, điên đảo loạn cuồng, để rồi trôi lăn vào vòng sanh tử luân hồi, muôn kiếp trước, và sẽ tiếp tục trôi lăn, muôn kiếp về sau, nếu như không chịu dừng nghiệp và chuyển nghiệp.

Với số tiền nho nhỏ, quyền lợi không đáng kể, con người còn có thể tỉnh thức, dừng được nghiệp, dẹp tâm tham, không thưa kiện người khác, không gây não loạn cho người, và gia đình của họ.  Nhưng khi kiện thưa đòi tiền bồi thường vài triệu đô la, con người thành ma, tối tăm mặt mũi, liều mạng đưa chân, hết biết lẽ phải, nhắm mắt làm càng, tới đâu cũng được. Mãnh lực của đồng đô la quả thực là vạn năng, thượng đế chẳng bằng, đă lôi kéo không biết bao nhiêu chúng sanh u mê, vào vòng tội nghiệp, từ xưa đến nay! 

Chính vì biết mà cố phạm, nghiệp thức che đậy, vô minh che lấp, con người chẳng thấy được thế giới Như Lai trang nghiêm, bản tâm thanh tịnh. Chúng ta là người tỉnh thức, đang tu học chánh pháp, đang muốn trở về nguồn cội, đang muốn chuyển hóa cuộc đời của mình, đang muốn thoát ly sanh tử luân hồi, càng phải nên hết sức cẩn trọng, cẩn trọng và cẩn trọng!


10) Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật có dạy: 
"Quá khứ tâm bất khả đắc. Hiện tại tâm bất khả đắc. Vị lai tâm bất khả đắc". 
Nghĩa là: Chuyện quá khứ qua rồi đừng luyến tiếc, đừng nhớ nghĩ làm gì cho bận tâm, chỉ gieo thêm nghiệp chướng chứ chẳng ích lợi gì. Muốn làm được điều này, ở trong gia đình hay ngoài xã hội, chúng ta cần phải có tâm vị tha, độ lượng, biết tha thứ, biết cảm thông, nói chung là tâm từ bi. Chuyện hiện tại rồi cũng qua mau, cố níu kéo cũng chẳng được, có lo âu phiền muộn cũng chẳng ích lợi gì. Chuyện tương lai chưa đến, lo lắng, ưu tư, sầu muộn cũng chẳng ích lợi gì.
Chi bằng chúng ta giữ gìn tâm trí được như như, bình tĩnh, thản nhiên, có phải khỏe hơn không?  Chuyện gì phải tới nó sẽ tới, lo sợ cũng chẳng ngăn cản được đâu.  Đó chính là nghiệp quả, nghiệp báo, còn gọi là: quả báo.  Hiểu sâu được luật nhân quả, chúng ta sẽ bình tĩnh thản nhiên chấp nhận quả báo xảy đến. Nếu không muốn có quả báo xấu, chúng ta phải chấm dứt gây nghiệp nhân xấu, tức là chấm dứt tâm tham sân si, tức là dừng ba nghiệp thân khẩu ư bất thiện. Trong kinh sách gọi là: dừng nghiệp và chuyển nghiệp.

11) Trong Kinh Tịnh Danh và Kinh Tâm Địa Quán, Đức Phật có dạy: 
"Tâm tịnh thì độ tịnh. Tâm địa bình thì thế giới bình".
Nghĩa là: Khi những vọng tâm vọng tưởng, vọng thức vọng niệm đã dứt sạch, người tu tập không còn tham, không còn sân, không còn si. Đến đây, người tu tập đạt được cảnh giới bất nhị, tức là không còn kẹt hai bên, không còn thị phi, không còn phải quấy, không còn tranh chấp, không còn hơn thua, không còn tạo tội, không còn tạo nghiệp, không còn cố chấp. Trong kinh sách gọi đó là cảnh giới: vô tâm vô niệm, hay là cảnh giới: nhứt tâm bất loạn. Lúc đó, tâm tịnh, tâm địa bình, tâm vô quái ngại, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, tức là tâm an nhiên tự tại, không còn điều gì có thể ngăn ngại được, gây lo sợ khủng khiếp được. Do đó, chúng ta xa rời những thứ điên đảo, là bỏ được mộng tuởng, đạt được cứu kính niết bàn. Mọi người chung quanh cảm thấy an ổn, yên tâm, khi sống gần người tu tập có tâm tịnh, tâm địa bình. Thế giới chung quanh thanh bình, quốc độ an ninh, chính là nghĩa như vậy.

12) Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy: 
"Thắng vạn quân không bằng tự thắng mình". 
"Tự thắng tâm mình là điều cao quí nhứt". 
Thắng được vạn quân, con người tóm thu được quyền lực, danh vọng, tiền tài, của cải vật chất, đủ mọi thứ trên trần đời.  Nhưng tâm người đó vẫn sống trong tam giới: dục giới, sắc giới, và vô sắc giới, cho nên vẫn còn phiền não khổ đau, vẫn còn sanh tử luân hồi. 
Muốn  xuất được tam giới gia, chúng ta phải luôn luôn quán sát tâm chính mình: Khi nào tâm tham, tâm sân, tâm si nổi lên liền biết, không theo. Lúc đó chúng ta đã tự thắng mình: tức là tự kềm chế hành động, ngôn ngữ, suy nghĩ của chính mình. Người ta công kích, khích bác, vu khống, phỉ báng, phê phán, mạ lỵ, sỉ nhục, mắng nhiếc, người nào phản ứng nhanh, trả đũa nặng nề thì dễ quá, thường quá.  Người nào tự thắng tâm mình, nhẫn nhịn được mà không thấy nhục nhằn, nhịn mà không nhục, tâm trí vẫn an nhiên tự tại, mới đáng kính phục, mới là điều cao quí nhứt.

13) Trong Kinh A Hàm, Đức Phật có dạy: 
"Tâm khẩu nhứt như". Nghĩa là: "Tâm khẩu không khác".
Tâm nghĩ sao, miệng nói vậy. Miệng thường nói tốt, tâm nên nghĩ tốt. Như vậy, cuộc sống mới được an lạc. Ngược lại, tâm nghĩ một đàng, miệng nói một nẻo, miệng nói như vậy, tâm không như vậy, nên sách có câu: Miệng thì nói tiếng nam mô. Trong lòng chứa cả một bồ dao găm. Ở trên đời này, đố ai lấy thước để đo lòng người. Trong sách có câu: “Tri nhân tri diện bất tri tâm,” nghĩa là: biết người chỉ biết mặt, không biết được tâm địa. Cho nên chư Tổ có dạy: Phản quan tự kỷ, nghĩa là: hãy quay lại, quán sát tâm chính mình, để giữ tâm khẩu nhứt như.

14) Trong Kinh Di Giáo, Đức Phật có dạy: "Chế tâm nhứt xứ, vô sự bất biện".
Nghĩa là: Khi khắc chế được tâm ư, trụ tâm ở một chỗ, bằng cách tụng kinh, niệm Phật, thiền quán, qua sự hiểu biết chánh pháp, tâm trí bình tĩnh thản nhiên, không còn chuyện gì để cãi vã nữa, để tranh chấp nữa, cho nên không có sự việc gì người tu tập không hiểu biết sáng tỏ, rõ ràng, không biện luận được một cách thông suốt.

  Điều này giải thích rằng: không có vị Phật nào không biết thuyết pháp độ sanh.


THƯA HỎI PHẬT PHÁP

- Thưa Thầy, kính xin Thầy giải thích câu: "Phật pháp tràn đầy trong thế gian".
- Đức Lục Tổ Huệ Năng, trong Kinh Pháp Bảo Đàn, có dạy:

Phật pháp tại thế gian
Bất ly thế gian giác
Ly thế mích bồ đề
Kháp như tầm thố giác.

Nghĩa là:
Người đời thường nghĩ Phật pháp là chuyện trên trời dưới biển, xa vời đâu đâu, không có thực tế, hoặc chỉ dành cho Phật tử hay người tu trong chùa mà thôi. Không ngờ rằng:  Phật pháp tràn đầy ngay tại thế gian này, ngay trước mắt, trong đời sống hàng ngày, áp dụng bình đẳng, đồng đều cho tất cả mọi người, không phân biệt Phật tử hay không Phật tử.  Nếu sống cách ly thế gian, con người không thể giác ngộ chân lý, cho nên không giải thoát phiền não khổ đau được. 

 - Tại sao vậy? Bởi vì lìa thế gian thì mất sáng suốt.  Khác chi đi tìm sừng thỏ!
Người nào nhận ra được như thế, tất sẽ được an lạc và hạnh phúc hiện đời, giác ngộ và giải thoát sau này.

- Kính xin Thầy giảng rõ hơn.
- Ví dụ, luật nhân quả có ngay tại thế gian, không cần đi tìm đâu xa. Gieo nhân nào, gặt quả nấy. Người gieo nhân hạt cam, chăm sóc, bón phân, tưới nước, tất sẽ gặt hái được quả cam, không thể nào được quả khác.

- Luật nhân quả đem lại an lạc và hạnh phúc như thế nào?
- Hiểu và tin sâu luật nhân quả, con người sẽ không buồn giận khi gặp nghịch cảnh (vận xui, bất trắc, nghe lời chướng tai, thấy cảnh gai mắt) và không vui mừng khi gặp thuận cảnh (vận hên, như ý, nghe lời tán tụng, thấy người hạp nhãn).

- Tại sao vậy? Bởi vì khi gặp nghịch cảnh, chúng ta hiểu ngay rằng: đó là nghiệp quả, nghiệp báo (quả báo) do chính mình đã tạo nghiệp nhân xấu ác trước đây.

Khi gặp thuận cảnh, chúng ta hiểu ngay rằng: đó là phước báo do chính mình đã tạo nghiệp nhân thiện lành trước đây.

Buồn giận hay vui mừng đều làm tâm loạn động. Tu theo Phật, cốt tủy là giữ bản tâm thanh tịnh.

Mình làm mình hưởng.
Mình làm mình chịu.

Đây là luật nhân quả, chí công vô tư, không do cầu nguyện mà được hưởng may mắn, không do cầu nguyện mà tránh được xui xẻo.- Trước đây, vì chưa hiểu Phật pháp, con người lỡ gây bao tạo nghiệp xấu ác, bất lương thiện, trong ý nghĩ, hành động và lời nói. Chẳng hạn như nghi ngờ, nghĩ xấu người khác, giựt hụi quịt nợ, vu khống cáo gian, ganh tỵ đố kị, gièm pha phỉ báng, chửi rủa mắng nhiếc, đâm bị thóc, thọc bị gạo, chờ người làm sẵn cho mình được hưởng, tìm nhẹ lánh nặng.

Giờ đây con người hiểu biết luật nhân quả, hết lòng sám hối, không gây thêm nghiệp nữa, nhưng rất lo sợ phải gánh chịu nghiệp báo nặng nề, nếu không thể van xin cầu khẩn mà tránh được, thì phải làm sao ?

- Theo kinh sách, Phật dạy: chỉ có phước báo mới có thể giảm thiểu, hoặc tiêu trừ quả báo mà thôi.
- Kính xin Thầy giảng rõ thêm.
- Phước báo là kết quả tốt đẹp trở lại với mình, do các điều thiện lành tạo ra phước báu. Chẳng hạn như tụng kinh, niệm Phật, bố thí cúng dường, cứu người giúp đời, thấy người làm việc phước đức, từ thiện, mình sanh tâm hoan hỷ, hoặc làm theo nếu có khả năng, bên ngoài luôn tránh việc tranh cãi, bên trong luôn khắc chế các tâm niệm không tốt, khi khởi lên niệm xấu về người khác liền ngưng và biết tàm quý (xấu hổ). Cũng giống như lấy công chuộc tội, hay dùng tiền tiết kiệm để trả nợ xưa vậy.

Nhờ đó, chuyện lớn sẽ hóa nhỏ, chuyện nhỏ sẽ hóa không. Ví dụ như đáng lẽ mình phải trả nghiệp báo nặng đến mức tán gia bại sản, thân bại danh liệt, tai nạn chết người, nhưng nhờ có phước báo che chở, mình chỉ gặp bất trắc nhẹ hơn, có thể vượt qua được, người đời thường gọi là may mắn, hay số hên. Đây là chân lý không dành riêng ai. []  

BBT PHẬT HỌC TỊNH QUANG

HỎI ĐÁP PHTQ TANG CHẾ

Wednesday 13/05/2015
Kính thưa quí vị,
VP.PHTQ.CANADA nhận được nhiều Email hỏi về các vấn đề liên quan đến việc chung sự của đời người. Thí dụ như việc hộ niệm khi lâm chung, việc nhận định vãng sanh hay không, việc lưu xá lợi hay không, việc mướn thầy tụng đám ma từ đâu hay từ các chùa chiền, vị nào có năng lực linh thiêng được việc hơn mà giá rẽ hoặc miễn phí, việc hũ tro nên để trong chùa hay mang về nhà, có được chia sớt đem về VN thờ hay không, việc có nên rãi tro xuống sông biển hay nên chôn, việc đám tang có nên làm hoành tráng để báo hiếu chăng, việc chôn cất chung nghĩa trang với thân nhân hay đồng nghiệp cho vui có nên chăng, việc làm lăng mộ nguy nga có đúng chăng, việc cúng thất cúng giỗ người chết có về chăng, có hưởng thụ mâm cỗ cúng chăng? Hằng bao nhiêu câu hỏi về vấn đề chung sự hay tang sự. Lần lượt VP.PHTQ.CANADA sẽ trả lời. Nếu quí vị có các thắc mắc tương tự hay có ý kiến nào xin hoan hỷ phát biểu để mọi người cùng suy ngẫm điều hay lẽ phải, các cá nhân có thể làm theo, phù hợp với hoàn cảnh riêng của mình.
Kính thư,
VP.PHTQ.CANADA

DÂNG SỚ CẦU AN - TIỀN MẤT TẬT MANG
CÚNG SAO GIẢI HẠN - TAI NẠN VẪN TỚI
lllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll

VP.PHTQ.CANADA xin giải đáp ngắn gọn các thắc mắc của quí ĐH như sau:

1. Khi gia đình có tang, chính các thân nhân tang quyến chân thành tụng kinh cầu nguyện là tốt nhất. Mặc áo tràng màu lam, nâu hay mặc đồ tang cũng đều được cả. Tất cả hình thức bên ngoài không quan trọng. Điểm quan trọng là tâm chân thành hướng về mười phương chư Phật cầu xin gia hộ cho người thân vừa quá vãng và hồi hướng công đức cho khắp pháp giới chúng sanh (mở rộng tâm từ vô biên thì phước báo vô lượng).

2. Không cần mời thỉnh các ông bà thầy cúng đám, tụng đám - dù tại gia hay xuất gia - với giá cả cắt cổ. Các vị này thường hay bày vẻ đủ điều tà pháp, làm ra vẻ linh thiêng huyền bí để làm tiền, làm phiền tang gia. Họ tụng mướn kiểu đó, ê a ngân nga lóc cóc leng cheng lùng tùng xèng như phường hát dạo, chẳng có tâm thành vị tha, chẳng vị chánh pháp, chỉ vì hầu bao, tranh giành cơm gạo, cho nên chẳng có công đức gì, chẳng ích lợi chi!

3. Đối với các Ban Hộ Niệm: nếu quí vị đến giúp tang gia với tấm lòng chân thành, vị tha - bất vị danh lợi thì quá tốt, đáng tán thán. Tuy nhiên, việc làm của quí Ban Hộ Niệm không thể so sánh với pháp sự của chư vị Tôn đức chân tu thực học.

Hơn nữa, Ban Hộ Niệm không nên phán quyết người này được vãng sanh, hay không, bởi phán quyết đó là tà pháp. Không nên cùng nhau vỗ tay reo hò vui mừng ngay trên thân xác, chúc tụng rằng người quá cố đã vãng sanh, trông man rợ quá.

Có một nhà sư quái đản lập dị bên Đức thường hay tuyên bố: «chia vui đám tang, chia buồn đám cưới». May quá, hòa thượng này chỉ có một. Việc tang chế cần nên tiết giảm tối đa các hình thức nghi lễ rườm rà, tốn kém, chỉ có tác dụng phô trương thân thế, phô trương sự hiếu để giả dối.

Việc cần làm thực sự là chí tâm cầu nguyện cho người quá cố được vãng sanh về cõi tịnh độ, cõi thiện lành, qua các thời tụng kinh, niệm Phật, hồi hướng công đức, bố thí cúng dường, làm việc phước thiện, cứu người giúp đời.

Giáo Lý Đạo Phật là phương tiện độ sanh, độ thân nhân của người quá cố được giác ngộ, hiểu rõ luật nhân quả, lý vô thường qua các nghi thức tang lễ.

Các thân nhân tang quyến và bằng hữu nên giác ngộ chân lý này và phát tâm tìm hiểu chánh pháp, để chuyển hóa đời sống tâm linh, để đạt an lạc hạnh phúc và giải thoát phiền não khổ não ngay trong cuộc sống và giải thoát sanh tử luân hồi. Đây mới chính là cứu cánh của các hình thức nghi lễ trong đạo Phật đúng theo chánh pháp.

Tóm lại, việc tang lễ trong Phật giáo nhằm mục đích chính là an ủi thân nhân và giảng giải chánh pháp.

Nên giác ngộ sự thật là: nhà sư còn chưa biết khi chết có siêu (vãng sanh) hay không, làm sao cầu siêu cho người khác được, huống là chư Phật tử tại gia như Ban Hộ Niệm.

Nhà sư chân tu thực học cần hướng dẫn cho quần chúng Phật tử giảm thiểu những lễ nghi ma chay tốn kém để "chuyên tâm nguyện cầu".

Nên nhớ: ai ăn nấy no, ai tu nấy chứng. Đó là chân lý.

Mọi người nên an tâm và không còn bận tâm, không phiền não khổ đau qua các tang sự, qua việc quá coi trọng cái thân xác tứ đại, cái nắm tro tàn hay nấm mộ, mà quên đi phần chính là tâm linh của người quá cố cũng như của những người còn sống trên thế gian.[]

BBT.PHTQ.CANADA

lllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll

Phước Huệ Song Tu
(Phúc Tuệ Song Tu)
Trên đời, người có phước được tai qua nạn khỏi,
được gặp may mắn,
được gặp bạn hiền thầy tốt.
- Muốn tu nhân tích phước phải làm sao?
- Phải hành Lục độ ba la mật
Lục độ ba la mật gồm có:
- Bố thí là dùng vật chất, chánh pháp giúp đỡ và an ủi người.
- Trì giới là giữ giới thanh tịnh trong mọi ý nghĩ lời nói và hành động .
- Nhẫn nhục là kham nhẫn và cam chịu dù bị khinh khi hoặc gặp khó khăn.
- Tinh tấn là cố gắng vượt mọi thử thách, giữ tâm chí vững bền.
- Thiền định là tâm an nhiên tự tại, không não loạn trong mọi hoàn cảnh.
- Trí tuệ là nhận thức sáng suốt đưa đến giác ngộ, không còn si mê.[]


 
                                            HÌNH ẢNH MỘT ĐỜI NGƯỜI


Ngày kia, nhà tỷ phú nọ mang cậu con trai duy nhất về nơi thôn dã với ý định để cho con tìm hiểu và so sánh với cuộc sống nghèo nàn của người dân quê. Hai cha con sống hai ngày tại một làng xóm xa xôi nơi mà người ta cho là có đời sống khó khăn. Sau khi trở về nhà, người cha hỏi người con:

- " Con thấy cuộc đi chơi ra sao?"

- " Cuộc đi thích thú lắm" người con trả lời.

- " Con có thấy cuộc sống của người dân quê không?"

- " Dạ, có"

- " Con nhận thấy gì trong cuộc sống của họ?"

- " Con nhận thấy chúng ta chỉ có mỗi một con chó, mà họ thì có tới bốn con. Chúng ta chỉ có một hồ bơi nhỏ ở giữa vườn, còn họ thì có cả một nhánh sông chảy mút mùa. Chúng ta phải nhập cảng những chiếc đèn để treo trong vườn mà họ thì không cần đến vì họ có đầy sao chiếu sáng lúc ban đêm. Tại chỗ ngồi chơi trước nhà, chúng ta chỉ có thể nhìn tới bức tường ở cổng trước mà thôi, còn họ có thể ngồi nhìn xuốt tới tận chân trời. Chúng ta chỉ có một khoảng đất để sống quanh quẩn ở đó, còn họ có cả một khoảng đồng ruộng thẳng cánh cò bay. Chúng ta phải có người ở để giúp việc chúng ta, còn họ thì không cần, họ tự lo lẫn cho nhau. Chúng ta phải bỏ tiền đi mua đồ ăn, còn họ trồng lấy và tự túc về thực phẩm. Nhà chúng ta phải có tường bao quanh để bảo vệ chúng ta, còn họ thì không cần vì họ có những bạn tốt để đùm bọc lẫn nhau."

Trước những lý luận của người con trai, người cha đã không nói nên lời.

Người con nói tiếp : " Con cám ơn cha đã mang con đi du hành để tỏ bầy cho con thấy chúng ta đang có một cuộc nghèo nàn như thế nào!"

* * *

Ở đời, chúng ta thường quên đi những gì chúng ta đã có và đang có, mà chỉ nghĩ tới những gì chúng ta không có và chưa có.

Những vật không đáng giá của người này chính là những vật mong uớc của người kia. Đời là như vậy!

Hạnh phúc sẽ đến, nếu chúng ta biết ghi nhận những an lạc tràn trề chúng ta đang có, thay vì chỉ nghĩ đến mộng uớc muốn có thêm.

Hãy tận hưởng những gì chúng ta đang có, nhất là những đồng bào, bạn bè, thân quyến đang có chung quanh ta.


 CON BƯỚM


Một người nọ tìm thấy một cái kén của con bướm . Anh ta nhận thấy cái kén này bắt đầu được cắn rách, sâu bướm bắt đầu bò ra. Quan sát một hồi lâu, anh thấy con sâu bướm cố hết sức lách thân mình qua lỗ hổng mà không được. Rồi con sâu có vẻ ráng hết sức mà không lọt ra nổi và nằm im như chịu thua. Động lòng thương, người nọ muốn giúp con sâu bướm, anh ta lấy mũi kéo nhỏ cắt vết rách của cái kén để sâu bướm ta vuợt ra ngoài dễ dàng. Sau khi sâu bướm ra khỏi kén, thì thân hình lớn ra nhưng đôi cánh thì lại nhỏ. Người nọ cố chờ xem con bướm có thể phát triển thêm ra không? mong rằng đôi cánh kia có thể nở rộng thêm để đủ sức bay đi?

Than ôi! vô ích! con bướm đã bị trọn đời tàn tật, lê lết với chiếc cánh nhỏ bé không thể bay đi được.

Người nọ vì lòng thương mà hấp tấp làm hỏng cuộc đời con bướm. Anh không biết là luật tạo hóa bắt buộc con sâu bướm phải tự phấn đấu để?vượt ra khỏi lỗ nhỏ của cái kén. Trong lúc phấn đấu đó, huyết mạch sẽ được luân lưu từ thân mình cho đến đôi cánh và sau khi vượt ra khỏi chiếc kén, bướm ta mới có đủ sức vuơn đôi cánh lớn ra mà bay bổng.

* * *

Sức phấn đấu cũng rất cần thiết cho đời sống chúng ta vậy.

Nếu cuộc đời không có những trở ngại thì chúng ta sẽ bị bại liệt như con bướm kia. Chúng ta không có đủ sức để bay bổng. Trước những thăng trầm thế sự, chúng ta phải có đủ trí phấn đấu ngõ hầu vươn lên trong cuộc sống.

Chúng ta sẽ có sức dũng mãnh, vì cuộc đời có những trở ngại khiến chúng ta phải đấu tranh.

Chúng ta sẽ có trí tuệ, vì cuộc đời có những vấn đề nan giải khiến chúng ta phải giải quyết.

Chúng ta sẽ có can đảm, vì cuộc đời có những chông gai nguy hiểm khiến chúng ta phải vượt qua.

Chúng ta sẽ có lòng từ bi, vì cuộc đời có những kẻ bất hạnh để cho chúng ta giúp đỡ.

Chúng ta sẽ có thịnh vượng, vì cuộc đời tạo ra những trí óc và bắp thịt khiến chúng ta phải vận dụng.

Các bạn có thấy đúng không ? 


** Sớm hay muộn gì tất cả chúng ta đều phải dọn đi, kể cả đời này và nhiều đời sau nữa!

**Chuyện này biểu lộ rằng người quyền thế nghĩ là quyền lực của họ thường hằng. Nhưng không có gì trong cuộc đời này là thường hằng. Người như vậy cần được đặt vào vị trí của họ.

**Chúng ta sống và chết và không bao giờ thực sự sở hữu bất cứ thứ gì. Có mấy người nghĩ sâu xa về điều này.

**Vật chất và của cải làm cho bạn nghĩ rằng mọi thứ tồn tại vĩnh viễn. Điều đó ngược lại sự nhận biết rằng mọi thứ trên đời này đều vô thường.



CHUYỆN TU HÀNH
PHẬT HỌC TỊNH QUANG SỐ 16

- Thưa Thầy, tôi có nghe câu nói: Thứ nhứt thì tu tại gia. Thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa.
Vô chùa tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền, thọ bát, bái sám, thì đúng là tu rồi, dễ hiểu quá. Còn tu tại gia, tu tại chợ là làm sao, thế nào, kính xin Thầy từ bi chỉ dạy cho. Cám ơn Thầy trước.

- Thông thường, ai cũng nghĩ vô chùa mới gọi là tu thì quả thật không sai. Nhưng chưa hẳn hoàn toàn đúng.

Người thường đi chùa, hoặc cạo tóc ở luôn trong chùa, nếu không tu sửa tâm tánh, vẫn tham lam, vẫn sân hận, vẫn si mê, có khi còn làm phách, dè bĩu, hay khinh khi người khác không biết tu như mình, rủa xả, mắng nhiếc người khác đọa địa ngục, phê phán không căn cứ, phỉ báng không tiếc lời, thích ăn trên ngồi trước, giành miếng ngon, lựa chỗ tốt, thì không gọi là tu được. Có chăng đó chỉ là hình tướng người tu, dù tại gia hay xuất gia, gọi là tu tướng mà thôi.

Còn tu tại gia, tu tại chợ thì rộng rãi hơn, chiếm toàn bộ thời gian trong một ngày, dù là người tại gia hay xuất gia. Lúc nào cũng tự xem xét, hôm nay mình có làm tổn thương ai qua hành động, lời nói và trong tư tưởng. Chẳng hạn như tại chợ, mình có để xe nghinh ngang giữa đường, bất kể người khác có đi qua được hay không. Chẳng hạn như tại gia, mình có ngồi coi TV chờ ông chồng (hay bà vợ) mời ăn cơm, ăn xong coi TV tiếp, không phụ giúp làm cơm, không phụ giúp dọn bàn, dọn dẹp, rửa chén bát, có khi lại ỷ mình là người làm ra tiền, nuôi cả nhà!

Tóm lại, tu tâm dưỡng tánh, hôm nay mình tốt hơn chính mình hôm qua, đó mới chính thực là tu.[]   
Chuyện Trong Đời
- Thưa Thầy, xin Thầy từ bi chỉ dạy để con người cảm nhận được hạnh phúc trên đời này, dù cuộc đời quá nổi trôi, đầy sự bất như ý.
- Con người thường có đủ 3 tâm: tham, sân và si.
Khi tâm tham nổi lên, con người cảm thấy thiếu thốn, chưa đủ, muốn thêm, dù cho nhiều người đã có tiền rừng bạc biển trong tay. Có nhiều người mãi mê chạy theo lợi và danh cho đến ngày nhắm mắt xuôi tay vẫn chưa thấy đủ.
Cho nên, con người muốn cảm nhận được hạnh phúc trong cuộc sống cần phải biết đủ (tri túc).
Sách có câu:
          Tri túc tiện túc
          đãi túc hà thời túc.
Tạm hiểu:
          Biết đủ thời đủ
          đợi đủ khi nào đủ.
Nghĩa là: Khi nào đủ ăn, đủ mặc, không đói rách, con người thấy biết là đủ thì ngay khi đó có hạnh phúc.
Với tâm tham, đợi kiếm thêm nhiều nữa mới cho là đủ thì khó hưởng hạnh phúc vì sẽ không bao giờ cho là đủ.
Có lời khuyên: trong đời con người nên nhìn xuống sẽ cảm nhận hạnh phúc vì có biết bao nhiêu người khác không bằng mình. Lúc đó con người sẽ phát tâm cứu người giúp đời, tạo phước báu. Nếu con người nhìn lên sẽ thấy có biết bao nhiêu người hơn mình, cho nên không cảm nhận được hạnh phúc. Tóm lại, khi tâm cảm thấy biết đủ, con người sẽ cảm nhận được hạnh phúc ngay trong tầm tay.
Khi tâm sân hận nổi lên, con người cảm thấy bị xúc phạm bị khinh khi, bèn khởi tâm trả đủa trả thù, cho nên không cảm nhận được hạnh phúc. Muốn dẹp bỏ tự ái hay giảm bớt tâm sân hận, con người cần quán chiếu đó chính là bản ngã. Bản ngã chính là nguồn gốc của phiền não khổ đau trên đời, sao có thể cảm nhận được hạnh phúc? Tóm lại, muốn cảm nhận được hạnh phúc, con người cần nên quán chiếu biết đủ và tập sống theo vô ngã (dẹp bỏ tự ái xằng). Dĩ nhiên như vậy là sống ngược không theo dòng đời thường.[]

VP. PHAT-HOC TINH-QUANG CANADA
Kính mời viếng thăm 
llllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll
Kính mời tham khảo:
llllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll

CHUYỆN TRONG CHÙA
- Thưa Thầy, có vị sư tu hành từ nhỏ, khoảng 7 tuổi, hay 7 tháng tuổi, gọi là đồng chơn xuất gia. Có vị sư xuất gia tu hành khi đã trưởng thành, khôn lớn, có trí tuệ, có học thức, có địa vị, có gia đình gọi là bán thế xuất gia. Vị sư nào đáng kính hơn, có ích lợi lớn cho việc hoằng dương chánh pháp hơn?
- Chuyện trong đời cũng như chuyện trong đạo, luôn luôn có 2 mặt và tùy theo nhiều yếu tố, chứ không thể kết luận vội vàng được.
Vị sư đáng kính là một vị sư chân tu thực học, có đức độ, làm nhiều lợi ích lớn nhỏ cho việc hoằng dương chánh pháp và phổ độ được nhiều bá tánh giác ngộ chân lý, không phân biệt vị đó xuất gia ở độ tuổi nào và lý do gì đi xuất gia.
Đối với các vị xuất gia từ thuở ấu thơ, chưa nhuốm bụi trần, đó là cái phước lớn, nhân duyên thiện lành. Vị sư đó có thuận điểm là tu hành được lâu năm, nhiều năm hơn so với các vị sư khác cùng tuổi tác. Do đó theo tâm lý chung, người đời kính trọng các vị sư này hơn.
Tuy nhiên có nhiều vị thực ra bị quăng vô chùa từ thuở nhỏ vì không biết cha mẹ là ai, con vô thừa nhận, con mồ côi, con nhà nghèo nuôi không nổi, con chạy loạn lạc chiến nạn. Các vị này lớn lên có muốn ra đời cũng không kiếm sống được, cho nên ở lì trong chùa cả 100 năm, sống lâu lên lão làng, hận người thù đời. Các vị này tâm địa vô cùng tàn nhẫn, độc ác đối với mọi người, ngay cả với đệ tử. Bề ngoài các vị này rất nghiêm trang, đạo mạo, cho nên gạt gẫm vô số người, khó nhận ra.
Đối với các vị bán thế xuất gia, tự quyết định việc tu hành khi tuổi trưởng thành. Nhiều vị trở thành rường cột của thiền lâm, lịch sử ghi chép đầy đủ công hạnh của các vị đại sư, tổ sư này.
Tuy nhiên, cũng có nhiều vị thất bại công danh, gãy đổ tình duyên, tìm nương náu cảnh chùa. Có vị cũng thành những vị sư hiền đức. Cũng có nhiều vị ghét người hận đời, vô chùa trả thù.
Tóm lại, khó nói trọn vẹn tất cả các trường hợp. Ai ăn nấy no ai tu nấy chứng.[]
llllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll
 


ADIDAPHAT,

Trong bài viết dưới đây Tỳ Kheo giải thích việc cầu nguyện theo quan điểm Phật Giáo rõ ràng dể hiểu.

Cầu nguyện là tập trung tâm trí, nhất tâm chuyển đổi vọng niệm mê lầm, xấu ác trở nên thanh tịnh.

Cầu nguyện là một cách định tâm, định ý để chuyển hóa lòng mình, lòng người.

Cầu nguyện vì thế chính là phương pháp quán chiếu,

nhìn lại con người thật của mình, quan sát tâm tình,

trừ khử tà kiến mê tín, khát vọng phàm tình, ích kỷ nhỏ nhen, ỷ lại yếu đuối.

Nếu hiểu chính xác ý nghĩa cầu nguyện thì 

cầu nguyện là một phương pháp tu tập, có giá trị tương đương với phương pháp

thiền định, quán chiếu tự tâm.

nhưng sau đó lại viết:

- Cầu nguyện cho thế giới hòa bình, chúng sanh an lạc là lời cầu nguyện vị tha, 

đúng chánh pháp, trưởng dưỡng từ bi & trí tuệ.

- Cầu nguyện cho mình, gia đình mình, đoàn thể mình, tôn giáo mình là lời cầu nguyện vị kỷ, 

phi chánh pháp, không từ bi & trí tuệ.

 - Nếu ai cầu cũng được như ý, thế giới sẽ loạn, nhân sanh đảo điên. Không làm việc cầu giàu có.........

người đọc cảm thấy hơi bối rối vì lúc thì bảo là: 
cầu nguyện là một phương pháp tu tập, có giá trị tương đương với phương pháp
thiền định, quán chiếu tự tâm.
sau thì lại nói:
- Cầu nguyện cho thế giới hòa bình, chúng sanh an lạc là lời cầu nguyện vị tha, 
đúng chánh pháp
nếu nói vậy thì lời cầu nguyện này được chấp nhận chứ?  
Xin Tỳ Kheo giải thích thêm dùm điểm này cho người đọc được tỏ tường hơn.
Xin đa tạ
Nam Mô A Di Đà Phật.
Kính
Vovitru
******************
Sunday 11.11.12
Kính thưa quí vị,
VP.PHTQ.CANADA cảm tạ quí vị đã nêu lên thắc mắc về Ý NGHĨA LỄ CẦU NGUYỆN.
Vấn đề cầu nguyện là vấn đề tín ngưỡng trong dân gian khắp mọi nơi, từ nhiều thế kỷ qua.
Vấn đề này có hai mặt:
1. Đối với đại đa số, đó là phương tiện an tâm trong lúc con người gặp khổ nạn, bất trắc.
2. Đối với giáo lý cao siêu vi diệu nhiệm mầu, đó là phương tiện tu tập giải thoát sanh tử luân hồi.
Triết lý hay cốt tủy của đạo Phật chính là:
Tự mình cứu mình - Không ai cứu được mình - kể cả Đức Phật - cho nên cầu nguyện là vô ích.
Đạo Phật quan trọng LÝ NHÂN QUẢ và LÝ VÔ THƯỜNG.
Do nhân quả, sau khi đắc đạo và còn tại thế, ngay Đức Phật vẫn phải đền trả nghiệp quả và Đức Phật không cứu được dòng họ Thích Ca hay các đại đệ tử, khi nghiệp quả đã đến lúc họ phải đền trả.
Chỉ có PHƯỚC BÁO mới cứu được, giảm thiểu được NGHIỆP BÁO mà thôi. (Điểm này xin xem thêm bài giảng về PHƯỚC BÁU).
Tuy nhiên, để phổ biến sâu rộng giáo lý vi diệu nhiệm mầu, đạo Phật cũng phải mang hình thức của một tôn giáo. Nói đến tôn giáo chính là các hình thức cầu nguyện, các nghi lễ cầu nguyện.
Lời cầu nguyện «vô ngã vị tha»
là lời cầu nguyện đúng chánh pháp, chấp nhận được bởi trưởng dưỡng «từ bi & trí tuệ».
Lời cầu nguyện cho thế giới hòa bình, chúng sanh an lạc là lời cầu nguyện vô ngã vị tha.
Tuy nhiên, lời cầu nguyện cho cha mẹ hay thân nhân quá vãng được siêu sanh cực lạc quốc, tuy bày tỏ lòng hiếu thảo, nhưng bấy lâu nay bị lợi dụng.
Người còn sống phải lo tu tập để tâm thức được nhẹ nhàng, khinh an, khi ra đi, khỏi cầu cũng siêu.
Các nhà sư sống có an chăng, chết có siêu chăng, làm sao nhà sư cầu siêu cầu an cho người có tiền bỏ ra thuê mướn dịch vụ cầu an, cầu siêu?
Các nghi lễ cầu siêu cầu an cũng chẳng qua là hình thức an ủi, khuyên giải thân nhân và cũng là cơ duyên tốt nhứt, thù thắng nhứt để giảng giải giáo lý, khuyên tang chủ phát tâm tu tập, đừng để đến lúc nằm trong quan tài mới nghĩ đến chuyện thỉnh sư cầu siêu.
Lúc đó các tà sư tha hồ bày trò, đặt chuyện, hăm he hù dọa, gây khó dễ, để tống tiền tang chủ.
Tang chủ cố gắng thỏa mãn nhà chùa, xong việc cúng thất, cả nhà đứng trước cổng chùa chửi thề ỏm tỏi, thề không bước tới cửa mấy thằng đầu trọc nữa.
Như vậy, cả tăng lẫn tục đều phiền não qua việc tang lễ.
Vấn đề tang lễ này cần viết dài hơn mới rõ ràng mọi việc, nay mai VP.PHTQ.CANADA sẽ phổ biến.



(Trích: Chữ Tâm Trong Đạo Phật)
TK Thích Chân Tuệ
Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Đức Phật có dạy: 
"Căn bản của sanh tử luân hồi là: Vọng tâm". 
"Căn bản của bồ đề niết bàn là: Chân tâm". 

Nghĩa là: Chúng sanh sở dĩ bị trầm luân sanh tử, bởi vì suốt ngày này qua ngày nọ, luôn luôn sống với vọng tâm, tức là tâm lăng xăng lộn xộn, luôn luôn thay đổi, khi vui khi buồn, khi thương khi ghét, khi khen khi chê, khi tán thán khi phê phán. Muốn tâm trí sáng suốt thanh tịnh, an nhiên tự tại, chúng ta cần quán sát tâm chính mình: khi các vọng tâm nổi lên, chúng ta liền biết, không theo, như vậy vọng tâm lắng xuống, diệt mất, chân tâm hiện ra rõ ràng. 

Muốn làm được điều này, muốn chân tâm hiển hiện, chúng ta cần phải thấu hiểu và tu tập bốn tâm rộng lớn, trong kinh sách gọi là tứ vô lượng tâm, đó chính là: từ, bi, hỷ, xả. Khi có tâm từ và tâm bi, chúng ta sẽ dễ cảm thông với muôn loài, nhứt là với loài người, với những người chung quanh, gần như cha mẹ, vợ chồng, con cháu, xa hơn như bà con, láng giềng, bạn bè. Do đó tâm giận tức, tâm sân hận có thể giảm bớt, nhẹ bớt đi. Khi có tâm hỷ và tâm xả, chúng ta sẽ bớt được các tâm ganh tị, tâm đố kỵ, tâm hơn thua, tâm cố chấp.  Cho đến khi nào tứ vô lượng tâm trọn đầy, vọng tâm tan biến, tâm ý trở nên an nhiên tự tại, chân tâm hiển hiện. 
Đây mới chính là ý nghĩa thiết yếu của việc tu tâm dưỡng tánh theo đạo Phật:
Trong tâm khởi niệm, nếu giác kịp thời, liền biết không theo, đó là: chân tâm.
Trong tâm khởi niệm, nếu còn mê muội, không giác kịp thời, liền theo niệm đó, trở thành: vọng tâm. Cũng ví như là: Khi có gió thổi, mặt biển nổi sóng, gọi là biển động, ví như tâm lăng xăng lộn xộn.
Mặc dù có gió thổi, mặt biển vẫn bình yên, đó là biển thái bình, ví như bản tâm thanh tịnh, hay tâm bình thường.
Trong Kinh Tịnh Danh, Đức Phật có dạy: "Mặt trời mặt trăng vẫn thường sáng tỏ, tại sao người mù lại chẳng thấy?  Cũng vậy, bởi vì nghiệp thức che đậy, chúng sanh thường biết mà cố phạm, cho nên chẳng thấy thế giới Như Lai thanh tịnh trang nghiêm, chẳng nhận ra bản tâm thanh tịnh thường hằng".

Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, Đức Phật có dạy: 
"Tất cả chúng sinh đều có bản tâm thanh tịnh". 
"Chúng sinh chẳng nhận thấy được, vì bị vô minh che lấp".
Nghĩa là: Con người ai ai cũng có bản tâm thanh tịnh, cũng như mặt trời mặt trăng luôn luôn sáng tỏ. Chỉ vì tâm tham lam của cải tiền bạc, hoặc vì tâm sân hận tự ái cao độ, hoặc vì tâm si mê cố chấp, ví như mây đen che lấp mặt trời mặt trăng, cho nên con người mới tạo tội tạo nghiệp, làm cho tâm trí loạn động, thường xuyên bất an, điên đảo loạn cuồng, để rồi trôi lăn vào vòng sanh tử luân hồi, muôn kiếp trước, và sẽ tiếp tục trôi lăn, muôn kiếp về sau, nếu như không chịu dừng nghiệp và chuyển nghiệp.

Với số tiền nho nhỏ, quyền lợi không đáng kể, con người còn có thể tỉnh thức, dừng được nghiệp, dẹp tâm tham, không thưa kiện người khác, không gây não loạn cho người, và gia đình của họ. Nhưng khi kiện thưa đòi tiền bồi thường vài triệu đô la, con người thành ma, tối tăm mặt mũi, liều mạng đưa chân, hết biết lẽ phải, nhắm mắt làm càng, tới đâu cũng được. Mãnh lực của đồng đô la quả thực là vạn năng, thượng đế chẳng bằng, đă lôi kéo không biết bao nhiêu chúng sanh u mê, vào vòng tội nghiệp, từ xưa đến nay! Chính vì biết mà cố phạm, nghiệp thức che đậy, vô minh che lấp, con người chẳng thấy được thế giới Như Lai trang nghiêm, bản tâm thanh tịnh. Chúng ta là người tỉnh thức, đang tu học chánh pháp, đang muốn trở về nguồn cội, đang muốn chuyển hóa cuộc đời của mình, đang muốn thoát ly sanh tử luân hồi, càng phải nên hết sức cẩn trọng, cẩn trọng và cẩn trọng!

 Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật có dạy: 
"Quá khứ tâm bất khả đắc. Hiện tại tâm bất khả đắc. Vị lai tâm bất khả đắc". 
Nghĩa là: Chuyện quá khứ qua rồi đừng luyến tiếc, đừng nhớ nghĩ làm gì cho bận tâm, chỉ gieo thêm nghiệp chướng chứ chẳng ích lợi gì. Muốn làm được điều này, ở trong gia đình hay ngoài xã hội, chúng ta cần phải có tâm vị tha, độ lượng, biết tha thứ, biết cảm thông, nói chung là tâm từ bi. Chuyện hiện tại rồi cũng qua mau, cố níu kéo cũng chẳng được, có lo âu phiền muộn cũng chẳng ích lợi gì. Chuyện tương lai chưa đến, lo lắng, ưu tư, sầu muộn cũng chẳng ích lợi gì. Chi bằng chúng ta giữ gìn tâm trí được như như, bình tĩnh, thản nhiên, có phải khỏe hơn không?  Chuyện gì phải tới nó sẽ tới, lo sợ cũng chẳng ngăn cản được đâu.  Đó chính là nghiệp quả, nghiệp báo, còn gọi là: quả báo.  Hiểu sâu được luật nhân quả, chúng ta sẽ bình tĩnh thản nhiên chấp nhận quả báo xảy đến. Nếu không muốn có quả báo xấu, chúng ta phải chấm dứt gây nghiệp nhân xấu, tức là chấm dứt tâm tham sân si, tức là dừng ba nghiệp thân khẩu ư bất thiện. Trong kinh sách gọi là: dừng nghiệp và chuyển nghiệp.

TIỂU-SỬ TỲ-KHƯU THÍCH-CHÂN-TUỆ



TỲ KHƯU THÍCH-CHÂN-TUỆ 
Thế danh: Trần-Văn-Trung. Bút hiệu: Cư-sĩ Chính-Trực.
Phẩm vị:  Tỳ-Khưu
Sinh ngày 3 tháng 6 năm 1948 tại Saigon. Nguyên quán:  Làng Trường Thọ, quận Thủ Đức, tỉnh Gia Định.
16 tuổi thọ Tam quy Ngũ giới với Thượng Tọa Thích Tâm Giác, Giám Đốc Nha Tuyên Uý Phật Giáo, được ban Pháp Danh Chính Trực.
Đệ I đẳng huyền đai Nhu Đạo (Viện Nhu Đạo Quang Trung, Dakao, Saigon 1)
Tốt nghiệp Kiến Trúc Sư tại Viện Đại Học Saigon
Giảng dạy bộ môn Kiến Trúc Dân Dụng và Quy Hoạch Thành Phố tại Trường Đại Học Kiến Trúc Saigon.
Giám Đốc Trung Tâm Toán Lý Hóa Minh Trung (Dakao, Saigon 1).
Giáo sư Toán Học các trường Bùi Thị Xuân, Đạt Đức, Hiếu Nghĩa, Hoàng Nguyên, Nguyễn An Ninh, Nguyễn Bá Tòng, Nguyễn Công Trứ, Trí Thành, Văn Hiến.
Hội viên Hội Giáo Sư Toán Việt Nam.
Tốt nghiệp Cử nhân Kiến Trúc tại Viện Đại Học Toronto, Canada.
Trưởng Cơ Sở Giáo Dục Việt Nam tại Toronto (dạy Việt Ngữ, Văn Hóa, Toán Học, chương trình Đố Vui Để Học). Trung Tâm Văn Hóa Việt Nam Toronto.
Xuất gia năm 2000 với Đại Lão Hòa Thượng Thích Tâm Châu, Thượng Thủ Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Trên Thế Giới, với pháp danh Chân Tuệ, pháp hiệu Giác Thắng, pháp tự Thanh Minh.
Sa Di Phụ Tá Tổng Thư Ký Tổ Đình Từ Quang (Montreal, Canada) Trụ sở Trung Ương GHPGVN.TTG (2002-2004)
Tổng Vụ Phó Tổng Vụ Hoằng Pháp GHPGVN.TTG (2004-2008)
Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Nghiên Cứu và Phát Triển Giáo Hội PGVN Trên Thế Giới (nhiệm khóa 2008-2012)
Sáng lập Trụ Trì Chùa Tịnh Quang (London, Brampton, Guelph) Canada.
Chủ trương biên tập VP. Phật Học Tịnh Quang Canada.
Chủ nhiệm Tập san Từ Bi & Trí Tuệ phát hành mỗi năm 3 số, từ năm 1976.
Đã có bài đăng trên các tạp chí và các trang nhà điện toán toàn cầu Phật Giáo khắp nơi, như Viên Giác (Đức), Pháp Âm (Canada), Pháp Âm (Na Uy), Pháp Âm (Calgary, Montreal và Texas), Hoa Sen (Edmonton, Canada), Đất Lành (California, Hoa Kỳ), Trúc Lâm (Hoa Kỳ), Phật Giáo Hải Ngoại (Hoa Kỳ), Phật Học (Kentucky), Nguồn Đạo (Washington D.C.), Linh Sơn (Michigan), Hoằng Pháp (France), Từ Ân (Canada) .
Tác phẩm đã xuất bản:
Cư Trần Lạc Đạo - Tập I - 1999
Cư Trần Lạc Đạo - Tập II - 2000
Cư Trần Lạc Đạo - Tập III - 2002
Pháp Môn Chăn Trâu - 2004
Bát Nhã Tâm Kinh
Thập Đại Nguyện và Mười Điều Tâm Niệm
Kinh Nghiệm Nội Quán - Một hướng dẫn đơn giản, trực tiếp về pháp hành Thiền Phật Giáo - The Experience of Insight, A simple an direct guide to Buddhist meditation by Joseph GoldStein - cư sĩ Chính Trực dịch Việt - 2003
Các pháp luận khác đã đăng trên báo chí và trang nhà điện toán toàn cầu Phật Giáo Việt Nam:

- Ăn Chay hay Ăn Mặn
- Biết Ơn và Báo Ơn (Vu Lan 2006)
- Cách Xưng Hô Trong Phật Giáo Việt Nam
- Chánh Kiến và Chánh Tín
- Chúa cũng chết - Phật cũng chết
- Công Đức và Phước Đức
- Cốt Tủy của Đạo Phật
- Dâng Sớ Cầu An Cúng Sao Giải Hạn
- Đi Chùa Đúng Chánh Pháp
- Giác Ngộ và Giải Thoát 
- Làm Sao Tìm Phật
- Lương Tâm và Phật Tâm
- Mê Tín và Chánh Tín
- Mười Điều Tâm Niẹm
- Nhất Chi Mai
- Tám Điều Minh Bạch Về Tượng Phật Ngọc Hòa Bình
- Thập Đại Nguyện (Bồ Tát Phổ Hiền)
- Tiền Làm Động Tâm Tiền Sanh Bất Tịnh
- Tôn Giáo Nào Cũng Mê Tín
- Tu Tướng và Tu Tâm
- Từ Bi và Bạo Lực 
- Bàn về Thiện Ác
- Ý Nghĩa của Sự Cầu Nguyện 
- PHẬT GIẢ - PHÁP GIẢ - TĂNG GIẢ (Tam Bảo Giả)
- TÂM SÁNG SUỐT - TÂM CHÂN CHÁNH - TÂM THANH TỊNH (Tam Bảo Thật)





Bộ sách Cư Trần Lạc Đạo
cần thiết cho quí Phật Tử
để tìm hiểu chánh pháp và cách ứng dụng
trong đời sống thực tế hàng ngày.
Gồm các bài giảng sau đây:

Ni Dung Tp 1:
1) An Lạc và Hạnh Phúc  2) Bát Chánh Đạo  3) Bát Phong  4) Bất Tùy Phân Biệt
5) Chánh Kiến và Chánh Tín  6) Công Đức và Phước Đức  7) Hạnh Bố Thí
8) Mười Điều Tâm Niệm  9) Nguồn Gốc của Khổ Đau  10) Phước Báu
11) Thập Đại Nguyện  12) Xuân Di Lặc.

Ni Dung Tp 2:
1) Ăn Mặn Ăn Chay   2) Ân Oán Cõi Đời  3) Bát Nhã Tâm Kinh
4) Cầu Trời có được gì không?  5) Chánh Ngữ  6) Dọn Kho Ăn Tết
7) Giác Ngộ và Giải Thoát  8) Làm Sao Gặp Phật  9) Lương Tâm và Phật Tâm
10) Pháp Môn Chăn Trâu  11) Thập Mục Ngưu Đồ  12) Qua Cơn Mê.

Ni Dung Tp 3:
1) Ái Ngữ  2) Ăn Chay Hay Ăn Mặn  3) Biết Mình Có Phước
4) Chữ Tâm Trong Đạo Phật   5) Dâng Sớ Cầu An Cúng Sao Giải Hạn
6) Đầu Năm Đi Chùa  7) Gia Đình Hòa Thuận  8) Giá Trị Của Con Người
9) Không Có Có Không  10) Luật Nhân Quả  11) Năm Người Mù Rờ Voi
12) Nhân Nào Quả Nấy  13) Phúc Tuệ Song Tu  14) Tâm Thư
15) Thủ Ấn Của Phật Thích Ca  16) Tội Nghiệp  17) Tu Tâm Dưỡng Tánh
18) Tứ Nhiếp Pháp  19) Y Nghĩa Bất Y Ngữ  20) Ý Nghĩa Của Cuộc Sống.

Phát Tâm Thỉnh Sách. Bảo Trợ Ấn Tống.
Hoan Hỷ Liên Lạc:


Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ
Chủ-Nhiệm PHẬT-HỌC TỊNH-QUANG CANADA
108 - 123 Railroad St.,
Brampton, ON, L6X-1G9, Canada.
Tel: 647-828-1016