TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)

TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)
TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)

Saturday, 12 April 2014

***LỜI DI HUẤN CUỐI CÙNG CỦA ĐỨC PHẬT


 
LỜI DI HUẤN CUỐI CÙNG CỦA
ĐỨC PHẬT
KHÔNG CẦN THỜ PHẬT (HAY THẦN TƯỢNG MỘT NHÀ SƯ NÀO)
CHỈ CẦN HỌC HIỂU & THỰC HÀNH GIÁO PHÁP

Dưới đây là tóm tắt những lời dặn dò cuối cùng của Phật. Thật ra Phật đã đau yếu từ ba tháng trước và đã khởi sự dặn dò người đệ tử thân cận nhất là A-nan-đà. Phật bảo A-Nan-Đà tập họp các đệ tử để nghe giảng và thông báo trước sự tịch diệt của mình. Lúc ấy Phật đã 80 tuổi. Trong những tháng cuối cùng, Phật đã gầy còm và mệt mỏi, nhưng vẫn đi thuyết giảng như thường, tuy không còn đi xa được nữa. A-Nan-Đà xin Phật hãy tĩnh dưỡng trong những ngày còn lại, nhưng Ngài dạy rằng: 

«Thân ta tuy có kém mạnh khoẻ, nhưng lòng từ bi của ta, trí sáng suốt của ta không kém sút. Ta còn tại thế ngày nào thì ngày ấy không phải là một ngày vô ích».

Trong một khu rừng cạnh thị trấn Câu-thi-na (Kusinaga, còn viết là Kuçinagara), ngày nay là một thị trấn nhỏ tên là Kasia, cách 50 cây số về phía đông tỉnh Gorakhpur, và cách 150 kilomét về phía bắc đông bắc Varanasi (Bénarès), Phật nằm nghỉ giữa hai gốc cây sa-la. Ngài tự gấp áo cà sa làm bốn, rồi nằm nghiêng về phía tay phải, đầu hướng về phía bắc, mặt hướng về phía tây, hai chân duỗi thẳng, chân này gác lên chân kia. Sau đó Phật ngỏ những lời cuối cùng với các đệ tử để nhắc lại một lần nữa tầm quan trọng của Giáo Pháp.

Phật nhắc nhở các đệ tử phải hiểu rằng vị thầy của họ không phải là một nhân vật nào cả, dù đó là Phật, vị thầy đích thực của họ chính là Giáo Pháp.

Phật cất tiếng và nhắn nhủ các đệ tử đang ngồi chung quanh Ngài như thế này:

Này các đồ đệ, các con hãy tự làm đuốc để soi sáng cho các con, hãy trông cậy vào chính sức mạnh của các con; không nên lệ thuộc vào bất cứ ai. Những lời giảng huấn của ta sẽ làm ngọn đuốc dẫn đường cho các con, làm nơi nương tựa cho các con; không cần phải lệ thuộc thêm vào những lời giảng huấn nào khác nữa.

Hãy nhìn vào thân xác các con, các con sẽ thấy cái thân xác đó ô uế biết chừng nào. Khi các con hiểu được rằng lạc thú lẫn đớn đau của thân xác cũng chỉ là cội nguồn chung của khổ đau, khi hiểu được như thế, các con sẽ không thể nào tự buông lỏng cho dục vọng chi phối các con.

Hãy nhìn vào tâm thức các con, các con sẽ thấy cái tâm thức đó biến dạng không ngừng.

Vì thế các con sẽ không thể nào tự buông rơi vào chính những ảo giác của tâm thức, để rồi tự duy trì những kiêu căng và ích kỷ do tâm thức tạo ra, nhất là khi các con đã hiểu rằng những xúc cảm đó nhất định chỉ mang đến khổ đau mà thôi.

Hãy nhìn vào tất cả các vật thể chung quanh xem có vật thể nào trường tồn hay chăng? Có vật thể nào không phải là những kết hợp sinh ra hay không? Tất cả sẽ gẫy nát, tan rã và phân tán. Các con chớ sợ hãi khi nhận thấy khổ đau cùng khắp mọi nơi, hãy noi theo những lời giáo huấn của ta, kể cả sau khi ta đã tịch diệt. Như thế các con sẽ loại bỏ được khổ đau. Thật vậy, cứ noi theo những lời giáo huấn của ta, rồi nhất định các con sẽ trở thành những đồ đệ thật sự của ta.

Này các đồ đệ của ta, những lời giáo huấn ta giảng cho các con, các con đừng bao giờ quên, đừng bao giờ để cho mai một đi. Phải bảo tồn những lời giáo huấn ấy, đem ra nghiên cứu và thực hành. Nếu theo đúng những lời giáo huấn ấy, các con sẽ đạt được an vui.

Những gì hệ trọng nhất trong những lời giáo huấn của ta là các con phải kiểm soát được tâm thức các con. Hãy gạt bỏ mọi thèm muốn và giữ cho thân xác đứng thẳng, tâm thức tinh khiết và ngôn từ chân thật. Nếu các con biết tự nhắc nhở là cuộc sống của các con chỉ là tạm bợ, các con sẽ đủ khả năng loại bỏ mọi thèm khát và hung dữ đưa đến khổ đau.

Nếu các con nhận ra được là tâm thức các con đang có xu hướng bám níu hay vướng mắc vào ham muốn, các con phải gạt bỏ ngay sự ham muốn và chận đứng sự cám dỗ đó. Các con phải làm chủ được tâm thức các con.

Tâm thức có khả năng biến một con người thành một vị Phật hay một con thú. Khi rơi vào sự lầm lẫn, ta có thể trở thành quỷ sứ, nhưng khi Giác ngộ ta sẽ thành Phật. Vì thế, các con phải kiểm soát lấy tâm thức các con và không đi lạc ra ngoài Chánh Đạo.

Để có thể giữ đúng như lời giáo huấn của ta, các con hãy kính trọng lẫn nhau và đừng cãi vả. Đừng bắt chước như nước với dầu xô đẩy lẫn nhau; hãy bắt chước như nước với sữa, có thể hoàn toàn hòa lẫn vào nhau.

Hãy cùng nghiên cứu với nhau, cùng giảng giải cho nhau, thực hành với nhau. Không nên phí phạm tâm thức của các con và thời giờ của các con trong sự cãi vả hay lười biếng. Hãy hân hoan đón nhận hoa thơm của giác ngộ vào lúc ra hoa và hái lấy quả ngọt trên đường ngay thật.

Những lời giáo huấn ta ban cho các con là do nơi kinh nghiệm của chính ta, và chính ta đã noi theo con đường đó. Các con nên tuân theo những lời giáo huấn ấy và giữ đúng như thế dù phải gặp hoàn cảnh khó khăn nào. Nếu các con xao lãng, có nghĩa là các con chưa hề gặp được ta, các con thật sự còn đang ở một nơi nào đó thật xa, dù cho trong lúc này đây các con đang ngồi bên cạnh ta cũng vậy.

Nhưng nếu ngược lại, các con chấp nhận và đem ra thực hành những lời giáo huấn của ta, thì dù cho các con ở thật xa trong một chốn tận cùng của thế giới, nhưng cũng giống như các con đang ở bên cạnh ta trong lúc này.

Hỡi các đồ đệ, phút cuối cùng của ta đã gần kề, phút xa lìa giữa ta và các con không còn bao lâu nữa. Tuy nhiên các con không nên than khóc.

Sự sống là một sự đổi thay không ngừng và không có gì cản trở được sự tan rã của xác thân. Cái sự thực đó, ta đang chứng minh cho các con thấy ngay trên thân xác của ta, thân xác ta sẽ tan rã như một cỗ xe hư nát. Đừng than khóc một cách vô ích, trái lại các con phải hân hoan khi nhận ra được cái quy luật biến đổi ấy và hiểu được rằng sự sống của con người chỉ là trống không mà thôi. Đừng cố gắng duy trì cái khát vọng phi lý, mong muốn những gì tạm bợ phải nhất định trở thành trường tồn.

Con quỷ của những dục vọng thế tục luôn luôn tìm cách đánh lừa tâm thức các con. Nếu có một con rắn độc trong phòng, các con sẽ không thể nào ngủ yên nếu chưa đuổi được nó ra ngoài. Các con phải cắt đứt những mối dây ràng buộc của thèm khát thế tục và dứt bỏ những mối dây đó như các con đã đuổi bỏ con rắn độc ra khỏi phòng. Các con phải bảo vệ thật cẩn thận tâm thức các con.

Này các môn đệ của ta, giây phút cuối cùng của ta đã đến, tuy vậy các con phải hiểu rằng cái chết chỉ là sự tan rã của xác thân vật chất mà thôi. Thân xác được cha mẹ sinh ra, nó lớn lên nhờ thức ăn, nó không có cách gì tránh khỏi bịnh tật và cái chết.

Một vị Phật đích thực không mang thân xác con người, mà vỏn vẹn chỉ là sự Giác Ngộ. Chỉ có sự Giác Ngộ mà thôi. Thân xác con người phải tiêu tan, nhưng Trí Tuệ của Giác Ngộ sẽ trường tồn vô tận trong thực thể của Giáo Pháp, trên con đường tu tập Giáo Pháp. Nếu có ai chỉ thấy thân xác ta thì kẻ ấy không thấy ta một cách thật sự. Chỉ có người nào chấp nhận những Lời Giáo Huấn của ta mới thật sự nhìn thấy ta.

Sau khi ta tịch diệt, Giáo Pháp thay ta làm vị thầy cho các con. Biết noi theo Giáo Pháp, ấy chính là cách các con tỏ lòng trung thành với ta.

Trong bốn mươi lăm năm sau cùng trong cuộc đời của ta, ta không hề giấu giếm điều gì trong những lời giáo huấn. Chẳng có một lời giáo huấn nào bí mật, không có một lời nào mang ẩn ý. Tất cả những lời giảng của ta đều được đưa ra một cách ngay thật và minh bạch.


Này các con yêu quý của ta, đây là giây phút chấm dứt. Trong một khoảnh khắc nữa ta sẽ nhập vào Niết Bàn. Những lời này là những lời dặn dò cuối cùng của ta cho các con.

Người chép lại những lời này của Phật xin chắp tay mong rằng:
- Vì Phật, chúng ta hãy đọc lại những lời nhắn nhủ trên đây thêm một lần.
- Vì tất cả chúng sinh, vì sự đau khổ của muôn loài, chúng ta lại đọc thêm một lần nữa.
- Để gởi đến từng đơn vị nhỏ nhoi nhất của sự sống, chúng ta lại đọc thêm một lần nữa, đọc thêm một lần nữa…

Chúng ta nguyện sẽ đọc lên và đọc lên cho từng chúng sinh một, ta đọc cho đến khi nào những lời dặn dò trên đây của Phật trở thành những lời dặn dò xuất phát từ chính tâm thức ta, để nhắn nhủ cho chính ta, nhắn nhủ những người chung quanh ta, kể cả những sinh linh nhỏ nhoi nhất của sự sống.
Khi những lời nhắn nhủ chân thật và tràn đầy Từ Bi trên đây của Phật trở thành làn hơi thở của chính ta, thì biết đâu lúc ấy ta cũng sẽ là một vị Phật. []


Kính mời viếng thăm
http://phtq-canada.blogspot.com/
 
THÔNG BÁO CỦA VP.PHTQ.CANADA
VỀ VIỆC PHÁT HÀNH TẬP SAN SỐ 25 (PHẬT ĐẢN 2014)
 
Văn Phòng Phật Học Tịnh Quang trân trọng cảm tạ quí vị thân hữu, đạo hữu hảo tâm gần xa đóng góp ý kiến và bài vở cho tập san PHTQ.25 ĐẠI LỄ PHẬT ĐẢN 2014.

Đồng thời VP.PHTQ cũng cảm tạ quí vị gửi tịnh tài hùn phước giúp đỡ việc ấn tống kinh sách hữu ích cho quí Phật tử tại gia tu học trong năm 2014.

Tập san PHTQ 25 (Đại Lễ Phật Đản PL.2558)  đang in và sẽ phát hành hoàn toàn miễn phí vào tháng 5-2014, tại các chùa, vp.bác sĩ, nha sĩ, dược sĩ và các cơ sở thương mại tại Toronto, Brampton, Hamilton, Mississauga, Montréal. 

Quí vị muốn nhận tập san qua bưu điện xin ủng hộ cước phí $10/ 1 quyển, gửi về địa chỉ sau đây :
 
Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ,
108 - 123 Railroad St., Brampton, ON, L6X-1G9
Quí vị khắp nơi, phát tâm góp bài, đóng góp ý kiến, khởi tâm bảo trợ, hùn phước ấn tống, cúng dường tịnh tài, tùy duyên thỉnh sách, qua thư bưu điện, không qua điện thoại.
 
Trân trọng thông báo,
Ban Biên Tập
VP. PHẬT HỌC TỊNH QUANG CANADA

BÌA TẬP SAN PHTQ SỐ 25 ( PHẬT ĐẢN 2014)

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mưu Ni Phật

Kính thư,
Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ
Chủ-Nhiệm PHẬT-HỌC TỊNH-QUANG CANADA
108 - 123 Railroad St.,
Brampton, ON, L6X-1G9, Canada.
Tel: 647-828-1016


 
Tôi mong tất cả Tăng Ni là người lãnh đạo Phật tử, quí vị đi và dẫn dắt Phật tử cùng đi đúng theo con đường đức Phật đã đi.
Đừng đi sai, đừng đi lệch, uổng một đời tu, không biết mai kia có gặp lại Phật pháp không?
Làm sao chúng ta đứng vững và luôn luôn không bị những luồng gió nhơ nhớp của thế gian
làm lem luốc,
phải trong sạch vững vàng trên con đường đạo. Đó là chỗ tha thiết mong mỏi của tôi.
HT Thích Thanh Từ
lllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll


NGHIỆP THIỆN NGHIỆP ÁC KHI LÂM CHUNG
Đại-Lão Hòa-Thượng
Thích-Thanh-Từ

Trong sử 33 vị Tổ có kể về một vị Tăng Ấn Ðộ, tôi không nhớ rõ tên.

Một hôm Ngài đi khất thực ngang qua nhà ông Trưởng Giả. Nhưng ông Trưởng Giả đi khỏi. Trong nhà có con chó chạy ra sủa to. Ngài nhìn nó và quở: Ngươi bị bệnh tiếc của mà trở lại làm chó, đã không biết còn sủa om sòm. Nghe nói vậy, con chó buồn bỏ ăn.

Ông Trưởng giả về, thấy con chó cưng của mình bỏ ăn.
Ông liền hỏi lý do và được người nhà kể lại: Hồi sớm mai, có vị Sa Môn đi ngang, nó thấy liền sủa. Rồi không biết ông ấy nói gì với nó, từ đó nó buồn bỏ ăn.
Ông hỏi vị Sa Môn đó ở đâu và ông tìm gặp được Ngài.
Với tâm rất sân hận, ông hỏi: Hồi sáng ông nói gì mà con chó của tôi nó buồn đến bỏ ăn?

Ngài bảo: Ông đừng nóng, để ta nói cho ông nghe. Con chó đó là cha của ông.
Ông càng tức hơn, hỏi: Tại sao con chó đó là cha tôi?
Ngài nói: Nếu không tin, ông hãy về tìm ngay giữa giường nơi cha ông khi xưa ngủ, mà bây giờ là chỗ con chó hay nằm, ông đào xuống sẽ thấy ché vàng.

Vì khi cha ông chết, không kịp trối trăn lại với ông, nên bây giờ tiếc của mới sanh trở lại làm chó để giữ của. Nếu không tin ta, ông về đào lên sẽ thấy.

Khi ấy, vị trưởng giả không còn lớn tiếng với Tổ nữa, mà trở về nhà đào chỗ Tổ đã chỉ. Quả nhiên ông thấy có một ché vàng. Ông liền chạy tới xin Tổ cứu cha ông. Tổ khuyên nên đem của đó bố thí cho cha ông hết nghiệp. Trưởng giả nghe lời Tổ dạy liền đem ché vàng bố thí. Sau đó con chó chết.
Như vậy, vì tiền của nên trở lại làm chó để giữ của, đó là điều đáng sợ.

Nên ở đây, tôi nhắn 3 điều cấm kỵ trước khi lâm chung.
Phật Tử phải nhớ đừng để bao giờ xảy ra.

Tôi lập lại: điều thứ nhất là tâm sân giận, điều thứ hai là tâm oán thù, điều thứ ba là tâm yêu tiếc, tức là yêu con, tiếc của.

Nhớ đừng có 3 tâm đó mới khỏi đọa vào con đường khổ. Có 3 tâm đó là nguy hiểm.
Nếu khi sắp lâm chung mà khởi tâm thiện thì sẽ được điều lành, điều tốt.

TÂM THIỆN LÀ TÂM GÌ?
- Ðiều thứ nhất, khi sắp lâm chung phát tâm bố thí, giúp đỡ người nghèo, kẻ bệnh, mình có phương tiện tới đâu phát tâm tới đó.

- Ðiều thứ hai, đối với người Quy Y rồi, thì phát tâm cúng dường Tam Bảo, còn chưa Quy Y thì phát tâm Quy Y để thiện tâm tăng trưởng. Làm như vậy là đã hướng về điều thiện và sẽ đi theo con đường thiện.

- Ðiều thứ ba là phát tâm phóng sanh nghĩa là cứu các con vật bị người ta bắt và sẽ bị giết. Mình cứu nó bằng cách mua lại đem thả, hoặc tìm cách nào cứu con vật không bị chết.

Bố thí, cúng dường, phát tâm phóng sanh là tâm lành, nhờ phát tâm lành, tự nhiên lần lần chúng ta sẽ đi theo con đường lành. Ðó là những điều tâm nên khởi khi sắp lâm chung.

Người Phật Tử biết tu, khi sắp lâm chung, cần phải biết ứng dụng Pháp Phật dạy, gìn giữ tâm mình luôn luôn đi đúng, không bị lệch lạc.
Ðối với người tu Tịnh Ðộ thì chuyên niệm Phật, không quên.
Lúc nào tâm mình cũng hướng về Phật không lơi lỏng, không nghĩ tới con, không nghĩ tới cháu, cũng không nghĩ tới tài sản gì hết. Ðược như vậy thì sẽ theo Phật không nghi ngờ. Ðó là trường hợp thứ nhất.

Thứ hai, đối với người không chuyên niệm Phật, mà thường hay xem kinh sách thì phải nhớ một bài kệ. Chẳng hạn, nếu quí vị thường tụng Kinh Kim Cang, thì phải nhớ một bài kệ,
tức là: nhớ tới Pháp như nhớ tới Phật, niệm Phật vậy.
Chúng ta nghiên cứu kinh điển, học Pháp của Phật thì phải nhớ Pháp, như tụng bài kệ sau đây trong Kinh Kim Cang:

Nhứt thiết hữu vi pháp
Như mộng huyễn bào ảnh
Như lộ diệc như điện
Ưng tác như thị quán

Nghĩa là:

Tất cả pháp hữu vi
như mộng, như huyễn,
như bọt, như bóng,
như sương, như điện,
phải luôn luôn quán như thế.
Chúng ta tụng mãi bài kệ này thì tâm chúng ta được trong sáng, không kinh hoàng khi sắp lâm chung.
 
Ðó là trường hợp thứ hai.
Trường hợp người biết tu Thiền, tâm được yên tĩnh phần nào, thì nhớ lúc sắp lâm chung, mình hằng sống với tâm thanh tịnh, đừng chạy theo vọng tưởng điên đảo.

Nghĩa là nhớ trong thân bại hoại này có cái không bại hoại. Nhờ vậy. chúng ta không kinh hoàng, không sợ sệt mà hằng sống với tâm bất sanh bất diệt của mình.
Thân này chẳng qua là tướng hư ảo, có đó rồi mất đó chớ không bền.
Chỉ cái thể chân thật của mình là thanh tịnh, không sanh không diệt muôn đời.
Ðó là chúng ta biết tu.



Trong ba trường hợp tôi kể trên, người tu niệm Phật thì chuyên niệm Phật, không nhớ chuyện đời. Người chuyên nghiên cứu Pháp thì nhớ bài kệ. Người tu Thiền thì nhớ ngay nơi mình có cái chẳng sanh chẳng diệt, hằng thanh tịnh, không có gì đáng sợ, không có gì đáng lo.

Người biết tu nhớ được những điều ấy không bị mê muội, không có gì sợ hãi, ra đi êm ái nhẹ nhàng.

Bây giờ tôi nói tới hậu sự, tức là việc sau khi mình chết. Nhiều vị nghĩ rằng, khi mình chết phải trối trăn lại với con cháu làm thế này, làm thế kia. Ðiều đó dư. Tại sao?

Bởi vì thân này do tứ đại hòa hợp mà thành, chúng ta sống cũng mượn tứ đại mà sống, uống nước giúp cho thủy đại, ăn giúp cho địa đại, thở giúp cho phong đại v.v...
Như vậy bốn đại đó nhờ vay mượn bên ngoài mà tồn tại. Ðến khi chết là không vay mượn nữa thì trả về cho tứ đại. Tứ đại trả về cho tứ đại thì chỗ nào cũng là tứ đại hết.

Tại xứ người, tứ đại cũng là tứ đại, ở quê hương mình thì tứ đại cũng là tứ đại.
Ðừng nghĩ bỏ thân ở xứ người là thiệt thòi. Thiệt thòi nhất là cái tâm, tinh thần của mình ra đi mà không sáng suốt, đó mới thật thiệt thòi. Còn thân tứ đại này bỏ ở đâu cũng được hết.

Người ta hay nói, thân này là thân cát bụi, khi chết trả về cho cát bụi, chứ không phải trả về xứ mình thành vàng thành ngọc gì, cho nên đừng quan trọng nó.

Thân này để con cháu giải quyết bằng cách nào thuận lợi nhất thì tốt, mình khỏi cần dặn dò gì hết. Dặn dò bắt buộc nhiều khi làm con cháu phải lúng túng. Thí dụ nơi đó không có lò thiêu mà bảo phải thiêu, trong khi có đất chôn mà không chịu chôn.
Hay ngược lại, chỗ đó không có đất chôn mà có lò thiêu, mình lại không chịu, nói thiêu nóng lắm, phải tìm đất chôn.

Như vậy con cháu lo sợ không biết tìm đất đâu mà chôn, càng làm cực khổ cho người sống chớ không có ích lợi gì.

Ðã là thân tứ đại, hoại rồi thì còn biết gì nữa mà sợ nóng, còn biết gì nữa mà đòi đem về quê hương. Biết chăng là cái tinh thần, là cái tâm của mình. Do đó quí vị đừng có lầm lẫn thân này trở về quê hương mới tốt. Nghĩ như vậy là sai lầm.

Chính cái tâm của chúng ta, tâm lành thì đi tới chỗ tốt, điều đó mới quan trọng.
Ðó là những lời nhắc nhở để quí vị biết sau khi chúng ta có trăm tuổi không làm phiền hà con cháu.

Tôi chỉ nói một phần ngắn cho quí vị biết khi đau, bệnh, già và sắp lâm chung. Theo đó quí vị có hướng lựa chọn, đừng bị tâm phàm tục làm cho mình đau khổ ngay hiện tại và kéo dài sau khi lâm chung. Ðó là những điều thiết yếu. Mong rằng tất cả quí Phật Tử nghe rồi, khéo ứng dụng để tự cứu mình, đó cũng là lời Phật dạy cho chúng ta thoát khổ. [

Thiền-Sư Thích-Thanh-Từ


Việc Tang Lễ Trong Phật Giáo
From:
Date:  
Subject:
Dâng sớ cầu an.
Tiền mất tật mang.
Cúng sao giải hạn.
Tai nạn vẫn tới.

Kính Thầy,
xin Thầy hướng dẫn và chỉ dạy cho chúng con:
Khi có tang sự, không có Tăng Ni, người nhà có được phép tụng kinh hay không?
Nếu được phép tụng thì bận áo tràng hay đồ tang?
Có người nói là không được phép ngồi trước ban Phật. 
Nhiều nơi cũng như Thầy biết, vì tiền tụng có khi hơi hơi mắc, nên có những ban hộ niệm đi tụng được mời, 
bao luôn từ tụng thất cho đến chôn cất, nhưng không thù lao hay tiền xăng cộ.
Có khi tang chủ không biết nấu đồ chay, ban hộ niệm bao luôn, nhưng không tính tiền. 
Như vậy có đúng hay không? 
Vì cả một tấm lòng thành chúng con đến với người ta, chúng con xem như là người thân của mình trong tiền kiếp, 
chứ không phải lại để cho họ mang ơn, hay khen ngợi.
Con xin được Thầy chỉ dẫn
A Di Đà Phật
Pd Trí Dũng

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mưu Ni Phật
Kính quí ĐH,
****************************************************
VP.PHTQ.CANADA xin giải đáp ngắn gọn các thắc mắc của quí ĐH như sau:

1. Khi gia đình có tang sự, chính các thân nhân tang quyến chân thành tụng kinh cầu nguyện là tốt nhất. Mặc áo tràng màu lam, nâu hay mặc đồ tang cũng đều được cả. Tất cả hình thức bên ngoài đều không quan trọng. Điểm quan trọng là tâm chân thành hướng về mười phương chư Phật, cầu xin gia hộ cho người thân vừa quá vãng và hồi hướng công đức cho khắp pháp giới chúng sanh (mở rộng tâm từ vô biên thì phước báo vô lượng).

2. Không cần mời thỉnh các ông bà thầy cúng đám, tụng đám - dù tại gia hay xuất gia - với giá cả cắt cổ. Các vị này thường hay bày vẽ đủ điều tà pháp, làm ra vẻ linh thiêng huyền bí để làm tiền, làm phiền tang gia. Họ tụng mướn kiểu đó, ê a ngân nga lóc cóc leng cheng lùng tùng lèng xèng như phường hát dạo, chẳng có tâm thành vị tha, chẳng vị chánh pháp, chỉ vì hầu bao, tranh giành cơm gạo, cho nên chẳng có công đức gì, chẳng ích lợi chi. Đón rước mất công, tốn tiền vô ích.

3. Đối với các Ban Hộ Niệm: Nếu quí vị đến giúp tang gia với tấm lòng chân thành, vị tha - bất vị danh lợi, thì quá tốt, đáng tán thán. Tuy nhiên, việc làm của quí Ban Hộ Niệm không thể so sánh với pháp sự của chư vị Tôn đức chân tu thực học. Hơn nữa, không nên phán quyết người này được vãng sanh hay không, bởi phán quyết đó là tà pháp; không nên cùng nhau vỗ tay reo hò vui mừng ngay trên thân xác, chúc tụng rằng người quá cố đã vãng sanh, trông man rợ quá. Có một nhà sư quái đản lập dị bên Đức tuyên bố:

«chia vui đám tang,
chia buồn đám cưới».

Việc tang chế cần nên tiết giảm tối đa các hình thức nghi lễ rườm rà, tốn kém, chỉ có tác dụng phô trương thân thế, phô trương sự hiếu để giả dối. Việc cần làm thực sự là chí tâm cầu nguyện cho người quá cố được vãng sanh về cõi tịnh độ, cõi thiện lành, qua các thời tụng kinh, niệm Phật, hồi hướng công đức, bố thí cúng dường, làm việc phước thiện, cứu người giúp đời.

Giáo Lý Đạo Phật là phương tiện độ sanh, độ thân nhân của người quá cố được giác ngộ, hiểu rõ luật nhân quả, vô thường qua các nghi thức tang lễ.

Các thân nhân tang quyến và bằng hữu nên giác ngộ chân lý này và phát tâm tìm hiểu chánh pháp, để chuyển hóa đời sống tâm linh, để đạt an lạc hạnh phúc và giải thoát phiền não khổ não ngay trong cuộc sống và giải thoát sanh tử luân hồi. Đây mới chính là cứu cánh của các hình thức nghi lễ trong đạo Phật đúng theo chánh pháp.

Tóm lại, việc tang lễ trong Phật giáo nhằm mục đích chính là an ủi thân nhân và giảng giải chánh pháp. Các tà sư coi tang lễ chính là phương tiện tài chánh cho chùa và bản thân.

Nên giác ngộ sự thật là: nhà sư còn chưa biết khi chết có siêu (vãng sanh) hay không, làm sao cầu siêu cho người khác được, huống là chư Phật tử tại gia như Ban Hộ Niệm.

Nhà sư chân tu thực học cần hướng dẫn cho quần chúng Phật tử giảm thiểu những lễ nghi ma chay tốn kém, dành nhiều thời gian «chuyên tâm nguyện cầu».

Nên nhớ:
 ai ăn nấy no,
ai tu nấy chứng.
Đó là chân lý.

Một người suốt đời ăn hiền ở lành, tu hành thập thiện, tại gia cũng như tại chùa, khi sống hạnh phúc, ra đi bình an, khỏi cầu cũng siêu.

Một người suốt đời thân làm ác, miệng mắng chửi rủa xả thêu dệt nói xấu người khác, ý nghĩ luôn luôn lợi mình hại người, khi sống nhiều kẻ thù người oán, khi chết làm sao bình an được, nói gì chuyện vãng sanh. Chỉ là trò dối gạt người nhẹ dạ, chưa học hiểu giáo lý mà thôi.

Kính mong mọi người an tâm và không còn bận tâm, hay phiền não khổ đau qua các tang sự, qua việc quá coi trọng cái thân xác tứ đại, cái nắm tro tàn hay nấm mộ,
mà quên đi phần chính là tâm linh của người quá cố cũng như của những người còn sống trên thế gian. []



Đạo Phật không coi trọng hình thức như thế gian

(hũ tro cốt)

Thắc mắc: Đối với hũ tro cốt có nên chia ra một phần để gửi về VN thờ chăng?
Kính thưa quý Thầy:
Tại sao trong Phật giáo, các chùa chiền trên thế giới san sẻ cho nhau Xá Lợi Phật để thờ cúng? Có chùa ở Việt Nam đã "thỉnh Xá Lợi Phật" từ Ấn Độ về đặt trong chùa lớn để thờ cúng.Tại sao Phật tử chúng con không nên san sẻ tro cốt của người thân để thờ cúng?
Kính, 
PT. Nguyễn Thị Minh


Tuesay 12/05/2015

Kính thưa quí vị
Chùa chiền ở Việt Nam hay bất cứ nơi đâu thường thỉnh Xá Lợi Phật từ Ấn Độ đem về thờ cúng chỉ là nghi thức của một tôn giáo. Các chùa chiền trên thế giới chia nhau thờ cúng Xá Lợi Phật để Phật tử khắp nơi có duyên lành chiêm bái. Từ đó Phật tử có thêm tín tâm, học hiểu, thực hành giáo pháp trong đời sống hàng ngày. Đó mới là điều quan trọng. Xá Lợi Phật hay tro cốt của người thế gian (tu sĩ hay cư sĩ Phật tử) chỉ là vật chất không có linh thiêng huyền bí gì cả. Tro cốt chỉ là tượng trưng để tưởng nhớ người thân. Đừng quá bận tâm (nên hay không nên - tốt hay không tốt). Có thể dùng hình ảnh thay thế trên bàn thờ. 
Nhiều người mê tín không hiểu chánh pháp thường bày vẻ các sự linh thiêng huyền bí chung quanh Xá Lợi Phật hay quan trọng việc xem người mất có lưu lại xá lợi hay không, nhất là đối với các tu sĩ hay cư sĩ. Tệ hại nhất là có phong trào tu niệm Phật cầu vãng sanh lưu xá lợi, thực là mê tín dị đoan vô cùng. Phong trào này chỉ gạt gẫm các người tu nhưng không học hiểu chánh pháp, kể cả nhiều vị tu sĩ dốt nát cũng tin theo, khiến cho vô số Phật tử u mê rơi vào tà kiến.
Nên khắc ghi việc quan trọng là: khi nhớ đến người thân đã qua đời, mình nên ăn hiền ở lành, sửa đổi tâm tánh để  khi  đến  ngày nào đó mình ra đi với nghiệp báo thiện lành. Đạo Phật không coi trọng hình thức như thế gian (hũ tro cốt).
Thêm nữa điều các Phật tử cần giác ngộ là: con người nên sống như thế nào cho có ý nghĩa, không tạo nghiệp xấu ác, nên tạo việc phước lành, cứu người, giúp đời, giữ tâm ý thanh tịnh.

Kính thưa Quí vị,
Người đời thường chấp hình tướng, nhiều khi không hiểu ý nghĩa hay nội dung. Đến chùa, người ta lạy tượng Phật, thành tâm van xin cầu khẩn điều này điều kia. Người đời thường lầm tưởng tượng Phật là một vị Phật thiệt. Họ không hiểu tượng Phật chỉ là tượng trưng. Họ cũng không hiểu ý nghĩa việc lạy Phật.
Khi thiên tai, động đất, hỏa hoạn, sóng thần, lũ lụt xảy  ra, chùa chiền hay tượng Phật cũng tiêu tùng.
Thực ra tượng thờ của bất cứ tôn giáo nào cũng tiêu tùng trong chiến tranh hay trong các trường hợp trên.
Ngay khi đức Phật còn tại thế, những vị đại đệ tử gặp nạn, đức Phật cũng không cứu được. 
- Tại sao?
- Bởi nghiệp quả hay nghiệp báo (gọi chung là quả báo) của cá nhân nào, khi đã đến, thì người đó lãnh đủ.  Lãnh  tụ hay chức sắc, giáo phẩm cấp cao, cấp thấp của các tôn giáo cũng bị sát hại, đóng đinh, truy sát, phỉ báng, mạ lỵ, bêu riếu như bao nhiêu người đời thường.
Nếu nhân quả xảy ra như vậy thì người đời cần gì phải tu hành, cần gì phải làm phước, cần gì phải tu nhân tíc đức, có ích chi chăng?
- Thưa có ích lợi nhiều lắm. Người đời phát tâm tu hành tạo phước (như cứu người giúp đời) ví như người đời  đi làm để dành tiền tiết kiệm (saving account) phòng khi hữu sự để chi dụng. Đừng đợi đến khi tai họa xảy đến thì qua muộn rồi. Kêu than, cầu khẩn Thượng Đế, Thánh Thần, Trời Phật, vô dụng. Do đó, người đời cần tạo phước đức ngay trong đời sống hiện tại hàng ngày, để giảm bớt quả báo khi xảy đến.  Chuyện lớn sẽ hóa nhỏ, chuyện nhỏ hoá không. CHÍNH PHƯỚC BÁO CỨU NGƯỜI - KHÔNG PHẢI DO CẦU KHẨN VAN XIN (CẦU AN & CẦU SIÊU) MÀ ĐƯỢC.

Thí dụ: Máy bay rớt thì khó có ai toàn tánh mạng.Nhưng trong chuyến bay Galaxy C35 chở các em cô nhi rớt tại phi trường Tân Sơn Nhất ngày 4.4.1975, có một số em thoát chết. Người đời nói rằng các em này mạng lớn, thực ra chính là phước báo  của các em nhiều. Lúc máy bay lâm nạn, các em này còn quá nhỏ, không kêu cứu Đức Mẹ Maria hay niệm Bồ Tát Quán Thế Âm.

Xưa nay, trên đời có nhiều thứ giả như: Phật ngọc giả, kinh pháp giả, tăng chúng giả. Nếu không nắm vững giáo lý, người đời thường dễ bị bọn người có hình tướng nhà sư gạt gẫm, làm tiền qua các lễ hội trai đàn bạt độ, pháp hội dược sư, pháp hội chẩn tế thủy kục cô hồn, cúng sao giải hạn đầu năm, lễ hội quán âm hành hương. Chùa Việt Nam ở Texas USA làm lễ hội quán âm linh hiển hàng năm, vẫn bị sập chánh điện vào lúc 2 giờ sáng  30-10-2014 vừa qua.  Bồ  Tát  Quán  Âm  đâu có che chở. Linh hiển ở chỗ nào? Mái chùa kiên cố che chở hồn dân tộc vẫn sập như thường. Điều may mắn là không ai thương vong. Đó là phước lớn vô cùng.
Xá Lợi Phật ngày nay bày bán đầy ở phi trường các xứ Phật giáo như Thái Lan, Miến Điện Nhật Bổn. Có gì là linh thiêng, huyền bí đâu. Giá rẽ như bèo. Ai mua cũng được
Đức Phật khi còn tại thế giảng dạy chân lý thoát khổ, sao không quan tâm học hỏi, thực hành? Lạy ba cái hũ xá lợi dù thiệt hay giả, có ích gì chứ?
Hơn nữa hũ đựng tro do nhà quàn trao có chắc gì từ thân xác của thân nhân mình? Hũ tro đã được niêm kín, lý do vệ sinh, sao lại có thể mở ra chia sớt?
Tóm lại con người nên học hỏi chánh pháp, để tránh bị gạt gẫm bởi tà pháp, tà sư, tà đạo đầy dẫy trên đời xưa nay.
Khi có chánh pháp, đời sống  tâm linh và cuộc đời của con người chắc chắn sẽ thay đổi.
Kính mong Quí vị quan tâm.
NAM MÔ BỔN SƯ
THÍCH CA MÂU NI PHẬT.
Kính thư,
Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ
VP. PHTQ. CANADA







BƯỚC SEN THỨ BẢY – VÀO QUẢ VỊ PHẬT
TKN THÍCH NỮ CHÂN LIỄU

Mùa Phật Đản đối với những người con Phật là mùa hoa sen nở, thật khó có thể diễn tả hết được sự hỷ lạc bình an một cách vi diệu trong mùa lễ hội nầy. Hạnh phúc thay, lành thay bậc trí tuệ giác ngộ ra đời. Cách nay 2635 năm, tại vườn Lâm tỳ ni, thành Ca tỳ la vệ, Thái Tử Tất Đạt Đa chào đời, giống như bao hài nhi khác, là một con người sống trong thế giới ta bà, thật sự có cha mẹ, có gia đình và thân bằng quyến thuộc.

Theo truyền thuyết, ngay khi đản sanh Thái Tử Tất Đạt Đa đi 7 bước, có 7 đóa sen đỡ chân. Truyền thuyết nầy mang nhiều ý nghĩa thâm sâu và nếu hiểu theo tinh thần học Phật, có rất nhiều lợi ích cho người tu. Một vị Phật ra đời, hay một con người ở thế gian đều có thể tu giải thoát, đạt đến địa vị Tôn Quí Tối Thượng. Sự đản sanh của một vị Bồ Tát hy sinh cả cuộc đời vì lòng đại từ đại bi vô tận và đã hành Bồ Tát đạo nhiều đời nhiều kiếp, kiếp cuối (nhất sanh bổ xứ) trải qua nhiều khổ hạnh và thiền định để mong tầm đạo giải thoát cứu khổ chúng sinh.

SÁU BƯỚC HOA SEN - HÀNH BỒ TÁT ĐẠO

Thái Tử Tất Đạt Đa sau khi cắt đứt mọi trần duyên ràng buộc, xuất gia tu hành  chứng Túc Mạng Minh, thấy biết nhiều đời trước Ngài đã từng sanh ở đâu trong lục đạo, làm gì, tất cả những chuyện quá khứ, được chính Đức Phật thuyết và các vị tỳ kheo kết tập lại trong Kinh Bổn Sanh Bổn Sự.

Như vậy, đã nhiều kiếp trước khi thành Bậc Chánh Đẳng Chánh Giác, Đức Phật cũng đã trải qua sáu nẻo đường sanh tử luân hồi. Hình ảnh bánh xe luân hồi diễn tả sự trôi lăn tử sinh của chúng sanh trong lục đạo, tức sáu cảnh giới: trời, người, atula, địa ngục, ngạ quỉ và súc sanh.

Đạo Phật không tin vào Thượng Đế sáng tạo toàn năng, toàn quyền thưởng phạt con người, tùy tiện theo lòng thương ghét. Niềm tin vào luật nhân quả bình đẳng, người tạo nghiệp thiện hay nghiệp ác từ thân, khẩu, ý, nhận kết quả hay lãnh hậu quả, dù là người thân yêu nhất muốn cứu hay thay thế cũng không được. Dụ như hòn đá nặng tất phải chìm trong nước, giọt dầu nhẹ tất nhiên nổi trên mặt nước, đó là nhân quả không sai. Niềm tin sâu luật nhân quả thiện ác ảnh hưởng vào sự tái sanh 6 cõi luân hồi (thiên, nhơn, atula, địa ngục, ngạ quỉ và súc sanh).

Cõi Thiên: Sanh về cõi trời, nơi phúc lạc thế gian, hưởng phước đã tạo tác.
Cõi Nhơn: Sanh vào nhân gian làm người, giàu hay nghèo, có thiện có ác.
Cõi TuLa: Sanh nhà quyền quí, phước báo gia đình, cùng chung cộng nghiệp.
Cõi Địa Ngục: Sanh vào nơi đau khổ, vì nghiệp ác sâu dầy, thiện nghiệp ít.
Cõi Ngạ Quỉ: Sanh vào nơi bất tịnh, vì nghiệp bỏn sẻn, tham lam ích kỷ.
Cõi Súc Sanh: Sanh vào nơi cầm thú, vì nghiệp sát, si mê quá nặng.

Tuy sống trong lục đạo luân hồi, nhưng các tiền kiếp Đức Phật là vị Bồ Tát hằng sống với Bát Chánh Đạo (chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định) và thường hành Lục Độ Ba La Mật (bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ).

Sự nổ lực tu tập Bồ Tát Hạnh, thực hành Bồ Tát Đạo của riêng từng cá nhân con người trong thế gian, có thể vượt thoát khỏi lục đạo sanh tử hay không? Bước hoa sen thứ 7 nói lên rằng điều đó có thể, điều đó không do ân huệ trời ban cho, hay thần linh thượng đế dành phần riêng cho ai cả, mà chính do đại từ, đại bi, đại lực, đại tinh tấn của người tự tu, tự chứng đạt được mà thôi.

BƯỚC SEN THỨ BẢY - QUẢ VỊ PHẬT

Sáu bước sen tinh khiết được tích tụ từ Bồ Tát Hạnh trong lục đạo. Với tâm từ bi thanh tịnh sáng suốt nhiều đời nhiều kiếp tu hành, Bồ Tát từng xả bỏ thân mạng cứu khổ ban vui, chan rải ánh sáng từ bi và trí tuệ cho muôn loài. Ý nghĩa của 6 bước hoa sen đầu tiên thể hiện sự đản sanh trong lục đạo luân hồi. Thái Tử Tất Đạt Đa dừng lại ở bước sen thứ 7, đó chính là kiếp cuối cùng, đạt quả vị Chánh Đẳng Chánh Giác, ngay trong cõi nhân gian này.  

Đức Phật khi đản sanh bước đi được đến đóa sen thứ bảy, chứng thực một sự thật sâu xa, thật khó thấy khó hiểu, khó nghĩ bàn. Đó là Niết Bàn tịch tịnh của chính con người tu từ bi và trí tuệ sẽ tự cảm nhận được một cách rõ ràng, khi chứng đắc quả vị Phật.

Đức Phật dạy:

Ai còn tham luyến tức còn ngã ái chấp đây là của tôi, ngã mạn chấp đây là tôi, ngã kiến chấp đây là tự ngã của tôi, thời có dao động. Ai không tham luyến, thời không dao động. Ai không dao động, thời được khinh an. Ai được khinh an thời không còn chấp . Ai không còn chấp, thời không có đến và đi. Ai không có đến và đi, thời không có sanh diệt. Ai không còn sanh diệt, thời không có đời này đời sau, không có giữa hai đời. Đây là sự đoạn tận khổ đau. (Niết bàn - Tương Ưng Bộ Kinh).

Đệ tử Phật môn, muốn vượt thoát ra khỏi sự khổ nạn trong 6 cõi luân hồi sanh tử và bước vào được hoa sen thứ 7, đạt đến Niết Bàn an tịnh không còn đau khổ nữa, cần phải tu học và thực hành theo lời Đức Phật dạy.

Đức Phật dạy con người phải chiến đấu mạnh mẽ với tâm tham lam, tâm sân hận, tâm si mê và phải dùng gươm trí tuệ cắt đứt những đam mê dục vọng danh lợi mà người thế gian cho là quí giá cần chiếm đoạt và hưởng thụ. Theo "Lý duyên khởi" thì:

- Cái nầy có, thì cái kia có (có ham muốn ích kỷ, thì có đau khổ tranh chấp)
- Cái nầy sanh, thì cái kia sanh (có trói buộc tham ái, thì có thù oán sân hận)
- Cái nầy không, thì cái kia cũng không (không có tham dục, không có ưu bi khổ não)
- Cái nầy diệt, thì cái kia cũng diệt (không có ta, không có vô minh sanh tử).

Vô minh diệt, thì có Niết Bàn. Chấp ngã, ham muốn, dục vọng càng to, càng xa Niết Bàn. Đức Phật là bậc đại từ, đại bi, đại trí, đại lực, xa rời tất cả ác pháp, sáng suốt phá tan vô minh phiền não, vượt qua đối đãi (nhị nguyên), đạt được Niết Bàn tịch tịnh. Người phàm trần thường chấp đúng sai, hơn thua, thương ghét, tốt xấu, khen chê, thật giả, nên bị chi phối, trói buộc, mê mờ, đắm sâu trong vô minh, sinh tử mãi trong vòng luân hồi, không thoát ra được.

Cũng chính vì cái bản ngã ràng buộc mà chúng sanh chìm nổi trong biễn khổ luân hồi. Đức Phật dạy pháp quán vô ngã, nhìn cho thấu đáo tứ đại đều do duyên hợp thành, chưa diệt được cái ta tự tôn tự đại, thì còn đau khổ, còn sanh tử. Chuyển mê khai ngộ, ly khổ đắc lạc, bước ra khỏi lục đạo là giải thoát sanh tử.

Đức Phật không từ một cõi siêu nhiên thần bí nào. Bản chất một con người, nên Ngài luôn cảm nhận được một cách trọn vẹn nổi thống khổ đời người, từ lúc sanh ra, già, bịnh và chết. Khi Đức Phật chứng quả Vô Thượng Bồ Đề, Ngài lưu lại thế gian thuyết pháp và giáo hóa cho tất cả chúng sanh bằng tâm từ bi bình đẳng tuyệt đối, chỉ rõ con đường tu để đạt đến Niết Bàn tịnh lạc. Ngài tuyên bố: Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành.

Phiền não biết, phiền não đoạn.
Tham sân biết, tham sân dứt.
Vui buồn biết, buồn vui dừng.
Thiện ác biết, thiện ác bặt.
Từng sát na biết, còn gì dính mắc.
Tự tại vĩnh hằng.
Trời xanh mây trắng bay.

NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
TKN Thích Nữ Chân Liễu
(tue.1.3.2011)








LỄ KÍNH CHƯ PHẬT
PHẬT PHÁP TẠI THẾ GIAN
PHẬT GIÁO CÓ MÊ TÍN KHÔNG
PHẬT TÂM PHẬT TƯỚNG (PHTQ 14)
PHẬT PHÁP NHIỆM MẦU
PHƯỚC BÁU
QUAN ĐIỂM CHỦ TRƯƠNG PHTQ
QUA CƠN MÊ