TKN Thích Nữ Chân Liễu
Nhân dịp đầu năm, đi chùa lễ Phật, nhìn thấy muôn hoa đua nở, vẻ đẹp tao nhã của thiên nhiên như lời chúc phúc tốt lành đến với tất cả mọi người. Một sức sống vui tươi vô cùng kỳ diệu khi nhìn cảnh sắc xinh tươi của "Mùa Xuân", tâm tình ai ai cũng cảm thấy phấn khởi và hoan hỷ đón mừng mùa xuân an lạc hạnh phúc, cát tường như ý. Hương xuân làm con người lạc quan yêu đời, cũng là thời gian mà người tu tâm dưỡng tánh có thể chuyển mình tự đứng lên, vượt thoát quá khứ nhiều phiền não, nhìn về tương lai đầy hứa hẹn.
Đệ tử Phật gia ai ai cũng mong ước được vô lượng an lạc, vạn sự cát tường, Phật sự hanh thông, Phật đạo viên thành và đạt được mùa xuân miên viễn, như những lời chúc đầy đạo vị mỗi khi xuân về. Mong ước đạt được những điều chúc tụng đầy ý nghĩa trong dịp xuân về, người con Phật nên hiểu rõ ràng về giáo lý nhân quả và sự thực hành đúng chánh pháp, áp dụng giáo lý đạo Phật trong đời sống hằng ngày.
Điều quan trọng vô cùng sâu sắc của Phật pháp, thể hiện qua giá trị nhân cách sống cao thượng chân chánh của người tu, đó chính là "Xuân trong nét đẹp của người tu", kết quả là sự an lạc cát tường như ý, không mong cầu cũng luôn luôn hiện hữu.
NÉT ĐẸP CỦA NGƯỜI TU XUẤT GIA
Theo sự tích của Đức Phật, hình ảnh thanh tịnh, từ tốn, bước chân an lạc xuất trần của một vị Sa môn, cùng tấm áo cà sa đơn giản, đầu trần chân đất, cuộc sống ung dung tự tại đã làm Thái Tử Tất Đạt Đa xúc động. Xuất thân từ cung vàng điện ngọc, địa vị cao sang quyền quí tột đỉnh, nhưng cuộc sống của vị Sa môn Cồ Đàm đơn giản thuần khiết, cơ cực khổ hạnh thể hiện qua một con người siêu việt xuất thế. Đức Phật là nét đẹp đạo hạnh đầy đủ "Từ bi và Trí tuệ". Sự kính phục tuyệt đối của nhân loại về chân lý đạt đến cứu cánh giải thoát sanh tử, ngàn đời nay đến đời sau đối với Ngài là vô cùng vô tận.
Sống trong giới pháp của Đức Phật, người tu xuất gia không phải bận rộn miếng cơm manh áo, không lo toan chuyện thị phi thế gian, là đang được hưởng gia tài của cha lành Thế Tôn để lại. Trên bước đường hành đạo, có nhiều chông gai trắc trở, đồng thời cũng có nhiều cám dỗ của vật chất danh lợi trong giai đoạn tự chế ngự bản thân, đó là thử thách, rèn luyện công phu tu tâm dưỡng tánh.
Đối với mùa xuân mỗi năm qua mau, kiếp sống con người thật ngắn ngủi, nếp sống thanh tịnh trầm mặc của các vị tu sĩ là khép lại bớt lục căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý.
Mắt: Không thấy vật chất là vĩnh cửu, là quí giá, cần nắm giữ cho riêng mình.
Tai: Không nghe nhiều, không chấp vào tiếng khen chê, sanh tâm thương ghét phân biệt.
Mũi: Không để cho mùi vị, hương lạ làm tâm tán loạn, sanh tâm mê đắm, thích hưởng thụ.
Lưỡi: Không để cho cảm giác ngon dở, ưa thích sai khiến, tạo nghiệp chẳng lành.
Thân: Không hơn thua, đẹp xấu phô trương, sanh lòng khinh mạn đua đòi.
Ý: Không để cho ý sanh vọng tưởng điên đảo, tâm thức tán loạn sẽ rơi vào tội lỗi.
Chứng thực cho sự giải thoát của con người, là được sống thảnh thơi trong an nhàn, tâm an tĩnh, trí sáng suốt, rời xa những bon chen, xô bồ của cuộc sống thường ngày, rời xa vòng danh lợi thế gian, thoát khỏi bể khổ trầm luân. Ấy chính là khi Tâm ta hoàn toàn an tĩnh.
"Nét đẹp của người xuất gia" không phải là hình tướng khác thường bên ngoài, không phải mũ cao, áo thêu áo gấm, đủ màu đủ sắc. Xuân đối với người xuất gia là cái đẹp trong sáng ở nội tâm, khi Tâm thanh tịnh, rời xa được lòng tham lam, sân hận, si mê, nhân cách thuần hậu, nguyện đem lợi lạc cho mình cho người.
Tâm hạnh người xuất gia cao thượng chân thật vô ngã vị tha, ắt sẽ đạt đến Niết bàn vô lượng an lạc, đó là "Xuân trong nét đẹp của người tu xuất gia", cũng là giá trị hạnh phúc bất tận cho người tu ngay tại thế gian.
NÉT ĐẸP CỦA NGƯỜI TU TẠI GIA
Đạo Phật không đòi hỏi mọi người đều phải lên Chùa để tu, cầu Kinh sớm hôm và hàng ngày phải ăn chay khổ hạnh hay buộc phải hoàn toàn cắt đứt tất cả tình thương với người thân, mới gọi là biết tu.
Ý nghĩa của chữ TU là tu tâm sửa tánh. Đức Phật dạy:
"Thắng vạn quân không bằng tự thắng mình. Tự thắng tâm mình là điều cao quý nhất".
Khi những vọng tâm, vọng tưởng, vọng thức, vọng niệm đã dứt sạch, thì sẽ chế ngự được tham lam, sân hận, si mê. Kết quả thực tế, cũng là phần thưởng cho những cố gắng, nổ lực không ngừng của người tu tại gia, trước mắt là những chuỗi ngày hạnh phúc, vui vẻ, đầy an lạc.
"Thắng vạn quân không bằng tự thắng mình. Tự thắng tâm mình là điều cao quý nhất".
Khi những vọng tâm, vọng tưởng, vọng thức, vọng niệm đã dứt sạch, thì sẽ chế ngự được tham lam, sân hận, si mê. Kết quả thực tế, cũng là phần thưởng cho những cố gắng, nổ lực không ngừng của người tu tại gia, trước mắt là những chuỗi ngày hạnh phúc, vui vẻ, đầy an lạc.
Một người yếu đuối sợ khó khăn, tâm tánh ích kỷ, thích mơ mộng danh lợi, đòi hỏi nhiều về thú vui vật chất riêng bản thân, muốn một cuộc sống "tu tại gia" không dễ dàng thực hiện được. Một ví dụ, như làm cha mẹ muốn tu tại gia, vừa trách nhiệm lo miếng cơm manh áo cho gia đình, cho các con, lại còn phải hộ trì Tam Bảo, tu học Phật pháp, niệm Phật, ngồi thiền, tụng kinh, tự soi rọi thanh lọc tâm, không phải ai cũng làm được. Nếu thực hành vẹn toàn được công phu "tu tại gia", người tu luôn luôn chịu hy sinh rất nhiều cho riêng bản thân mình, tâm ý cao thượng khó làm khó thực hiện, nhưng đó chính là môi trường tu tâm dưỡng tánh tuyệt vời nhất. Người muốn tu, ở hoàn cảnh nào cũng tu được, nếu hiểu được cách tu theo lời Phật dạy, nghĩa là áp dụng tứ vô lượng tâm là từ, bi, hỷ, xả, khoan dung rộng lượng trong đối xử, biết tự kềm chế thú vui vật chất, mạnh dạn hy sinh lợi ích cá nhân, biết xả bỏ ích kỷ nhỏ nhen. Người tu tại gia tự độ và còn có thể độ được cho những người thân trong gia đình và làm tấm gương cho con cháu noi theo. Sống biết đủ, không đòi hỏi nhiều, không bận rộn vào cuộc vui vô nghĩa, người "tu tại gia" sẽ có rất nhiều thời gian cho việc nghiên tầm kinh điển, tu học để khai sáng trí tuệ, trưởng dưỡng từ bi.
"Nét đẹp của người tu tại gia" là cuộc sống chân thật hồn nhiên, một nhân cách trong sạch và một tâm Bồ Tát tại gia vô chấp vô phân biệt, vượt qua được hình tướng xuất gia, nhưng vẫn có thể thành tựu đạo nghiệp.
Người "tu tại gia" có thể đem lại cho mình, cho những người thân sống chung quanh sự bình yên tuyệt đối trong tâm hồn, sự thoải mái vô cùng qua cung cách cư xử trong từng cử chỉ, lời nói, việc làm cũng như ý nghĩ. Đó là ý nghĩa vi diệu tuyệt vời "Xuân trong nét đẹp người tu tại gia", ngay từ những điều vô cùng giản dị trong cuộc sống hằng ngày.
Tóm lại, mùa xuân trong nét đẹp của người tu xuất gia hay tại gia là ở tâm hạnh của Bồ Tát, nhân cách nghiêm tịnh, giới đức khiêm cung.
Được gần các "Bậc Thiện Nhân" con người sẽ cảm nhận vô lượng an lạc hạnh phúc, như được hưởng gió mát và ánh nắng ấm áp, đầy đạo vị của những cánh hoa xuân tươi đẹp.
- Trang nghiêm giới hạnh, đó là thân đẹp.
- Ăn ở hiền hòa, thủy chung, đó là nết đẹp.
- Cư xử khiêm hạ, từ tốn, đó là cử chỉ đẹp.
- Giúp đỡ người bị nạn hay đói nghèo, đó là tấm lòng đẹp.
- Hiếu với cha mẹ, kính bậc hiền thánh, đó là tâm hồn đẹp.
- Gặp người đau khổ, sợ hãi, nói lời an ủi, đó là ngôn ngữ đẹp.
- Không khởi tà niệm, tâm luôn chánh trực, đó là ý đẹp.
- Biết độ lượng, bao dung, đó là đức hạnh đẹp.
- Khai mở tâm trí, phá trừ vô minh, đó là trí tuệ đẹp.
- Đạt được giác ngộ và giải thoát, đó là nét đẹp tối thắng.
Mùa xuân tuyệt đẹp với một tâm thức an bình tự tại, người biết tu hãy quay trở về nội tâm, thắp sáng ngọn đuốc trí tuệ, trưởng dưỡng tâm từ bi, thấy được Phật tánh không sanh, không diệt của mình, để ngộ ra "ý xuân vi diệu" này.
Có như vậy, ta mới có thể thanh thản sống đời, không tự ti cũng không tự tôn, với cái nhìn tự tại, vô úy giữa muôn sự có không, đúng sai, hơn thua, được mất, vinh nhục.
Ở thế gian tất cả các pháp sanh diệt đều là vô thường.
"Mùa xuân trong nét đẹp người tu" mới thật sự đem lại thân tâm an lạc, phước trí trang nghiêm, tùy tâm mãn nguyện, vạn sự cát tường. []
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
TIẾC
Thơ Viên-Phụng
Tiếc cho mùa xuân
không cành mai
Tiếc cho cành đào
không nở hoa
Tiếc cho con người
không đường đi
Tiếc cho đời tu
không ánh sáng
* *
Xuân không mai.
Tiếc !
Đào không hoa.
Tiếc !
Người không đường.
Tiếc !
Tu không sáng.
Tiếc !
Chuỗi Ngọc Trân Bảo Pháp Thí
Mỗi năm Tết đến, nơi nơi hân hoan đón
mừng xuân mới, chúc nhau an lành và hạnh phúc. Mùa xuân trở về mang niềm vui đến
cho mọi người trên thế gian, trong đó có những người con Phật. Chuông trống Bát
Nhã thâm trầm vang lên trong các chùa, mang âm hưởng tỉnh thức cho phút giây đón
mừng năm mới. Phút nhập từ bi quán như nhắc nhở tâm từ bi của chư Bồ Tát gởi
đến muôn loài và lời cầu nguyện quốc thái dân an, thế giới hòa bình, chúng sanh
an lạc. Mùi hương trầm lan tỏa, như hương xuân cúng dường mười phương chư Phật
nhân dịp đầu năm. Nụ cười từ bi của Ðức Phật luôn luôn hiện hữu, tạo cho đạo
tràng một không khí ấm áp đầy đạo vị, mặc dù ngoài kia mùa đông Canada, tuyết
đang rơi lạnh buốt người.
Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm, trong
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, gọi ngắn là Kinh Pháp Hoa, Chư Tôn Ðức Tăng Ni hướng
dẫn Phật tử đọc tụng vào dịp đầu năm, là cầu mong tứ chúng vui xuân an lành
trọn vẹn và được nhiều hạnh phúc trong năm mới.
Trong phẩm Phổ Môn, có đoạn:
“Bồ
Tát Quán Thế Âm nhận Chuỗi Ngọc Trân Bảo Pháp Thí của Bồ Tát Vô Tận Ý cúng
dường, vì thương xót hàng tứ chúng cùng Trời Rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu
la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, người và không phải người. Liền khi
đó, Bồ Tát Quán Thế Âm chia Chuỗi Ngọc Trân Bảo Pháp Thí làm hai phần: một phần
dâng Đức Phật Thích Ca, một phần dâng Đức Phật Ða Bảo”.
Quán Thế Âm nghĩa là quán sát âm thanh từ
thế gian phiền não, chuyển hóa thành ý thức lắng nghe mầu nhiệm nơi tâm giác
ngộ, để tùy duyên cứu độ nhân gian. Nếu hiểu được ý nghĩa vô cùng thậm thâm vi
diệu của Phẩm Phổ Môn và hạnh nguyện từ bi cao thượng của Bồ Tát Quán Thế Âm, con
người sẽ không rơi vào tà kiến si mê và khai mở trí tuệ bát nhã. Với trí tuệ
bát nhã, người phát tâm tu hành hạnh nguyện Bồ Tát Quán Thế Âm hằng sống với
lục độ ba la mật, và luôn giữ tâm trong bát chánh đạo, ví như những chuỗi hạt
châu ngọc quí giá chiếu sáng nối kết nhau không rời, cho đến khi giác ngộ viên
mãn.
*
Lục độ ba la mật gồm có:
-
Bố thí là dùng vật chất, chánh
pháp giúp đỡ và an ủi người.
-
Trì giới là giữ giới thanh tịnh
trong mọi ý nghĩ lời nói và hành động .
-
Nhẫn nhục là kham nhẫn và cam
chịu dù bị khinh khi hoặc gặp khó khăn.
-
Tinh tấn là cố gắng vượt mọi
thử thách, giữ tâm chí vững bền.
-
Thiền định là tâm an nhiên tự
tại, không não loạn trong mọi hoàn cảnh.
-
Trí tuệ là nhận thức sáng suốt
đưa đến giác ngộ, không còn si mê.
*Bát
chánh đạo gồm có:
- Chánh kiến là kiến thức thấy biết đúng, hiểu
rõ vô thường, nhân quả.
- Chánh tư duy là sự suy nghĩ chân chánh, không
trái với chân lý và lẽ phải.
- Chánh ngữ là lời nói chân chánh, không nói
những lời thô ác, dối gạt.
- Chánh nghiệp là hành vi chân thật, không làm
những việc ác nghiệp.
- Chánh mạng là nếp sống chân chánh, không làm
những nghề bất thiện.
- Chánh
tinh tấn là tâm chuyên cần trì giới, tu hành, không lười mỏi.
- Chánh
niệm là tâm hiểu rõ việc đang nghĩ, đang nói và đang làm.
- Chánh
định là tâm bình tĩnh thản nhiên, không còn si mê loạn động.
Bồ Tát Quán Thế Âm nhận Chuỗi Ngọc Trân
Bảo Pháp Thí của Bồ Tát Vô Tận Ý cúng dường, vì lợi lạc của chúng sinh, và đem
cúng dường Ðức Phật Thích Ca, nghĩa là cúng dường Giáo Pháp giải thoát tối thượng;
và cúng dường Đức Phật Ða Bảo, nghĩa là cúng dường Phật Tánh thanh tịnh sáng
suốt.
Cúng
dường Ðức Phật Thích
Ca:
Ðức Phật Thích Ca là
một vị Phật lịch sử. Giáo lý của Ngài trong sáng như vầng nhật nguyệt, giúp cho
người tu theo hạnh Bồ Tát Quán Thế Âm, kinh Pháp Hoa, còn gọi là Hành Giả Pháp
Hoa, giác ngộ tri kiến Phật. Ngài chỉ dạy vô vàn pháp môn tự giải thoát sự trói
buộc của phiền não, tự giác ngộ chân lý vượt trên mọi tín ngưỡng dân gian. Phần
nhiều mọi sự khổ não xuất phát từ tâm tham sân si, tâm tưởng tượng cố chấp, hay
tâm lo buồn sợ hãi. Con người thường hay lo lắng, buồn rầu, sợ nghèo, sợ đói,
sợ khát, sợ bịnh, sợ già, sợ chết, sanh ly tử biệt. Tưởng tượng, cố chấp, lo sợ
càng nhiều, thì dễ sanh tâm sân hận, hung ác, việc tội lỗi gì cũng dám làm.
Người tu theo Phật muốn giải thoát sự khổ não trong cuộc đời, nên phát tâm hành
trì tinh tấn giáo pháp của Đức Phật giảng dạy, sống trong bát chánh đạo, trí
tuệ khai mở, thấu hiểu được chân lý nhân quả. Con người sẽ hưởng được pháp vị
an lạc vô biên.
Tham ái sanh ưu tư
Tham ái sanh sợ hãi
Ai giải thoát tham ái
Không ưu, không sợ hãi.
(Kinh
Pháp Cú)
Tâm từ thắng nóng giận
Tâm thiện thắng ác hung
Tâm thí thắng tham lam
Tâm chơn thắng dối trá.
(Kinh
Pháp Cú)
Hành Giả Pháp Hoa thực hành tự lợi và lợi tha, luôn luôn hành
trì lục độ ba la mật, với lòng từ bi chân thật vì lợi ích chúng sinh mới có thể
xả thân cứu độ tha nhân, còn gọi là “vô ngã vị tha”, hay “quên mình vì người”. Tâm
hạnh Bồ Tát đạo ví như trân bảo quí giá hiếm có, cũng là Chuỗi Ngọc Trân Bảo
Pháp Thí cúng dường Đức Phật Thích Ca thù thắng nhất.
Cúng dường
Đức Phật Ða Bảo:
Ðức Phật bên trong Tháp Ða Bảo hiện ra
trên hư không, chính là hình ảnh tiêu biểu cho tri kiến Phật, cũng là Chân tâm
hay Phật tánh, tức là trí tuệ bát nhã tự thân, không dính mắc với chuyện đối đãi,
thị phi, nguyên nhân gây nên phiền não khổ đau của thế gian. Do đó, con người muốn
được giải thoát nên phát tâm tu hành
hạnh Bồ Tát Quán Thế Âm. Bồ Tát là tâm từ bi cứu giúp nhân loại, tâm hoan hỷ
làm tất cả công đức và phước đức, mà không chấp có công đức và phước đức, đó chính
là tâm xả. Bồ Tát không có tâm tự mãn, không có tâm mong đợi sự tán thán ngợi
khen, nghĩa là Bồ Tát có tâm phá chấp và vô trụ, tức là “vô ngã vị tha” tuyệt đối.
Ðức Phật dạy: “Phụng sự chúng sanh là cúng dường chư Phật”. Trên thế giới, với tự
tánh thiện lành sẵn có, nhiều người tự nguyện đến những nơi chiến nạn, đói
nghèo, bịnh tật, thiên tai. Với tâm từ bình đẳng bố thí tài vật và lòng bi mẫn
không phân biệt màu da, chủng tộc, tôn giáo, họ dùng bàn tay khéo léo dịu dàng
và tài năng sẵn có, xoa dịu nỗi thống khổ cho nhân loại. Chính họ là những
người hành theo hạnh nguyện của Bồ Tát Quán Thế Âm, quên mình vì người, nghe theo
tiếng kêu cứu khổ đau của thế nhân và hiện thân cứu giúp. Cũng có người tu theo
hạnh nguyện của Bồ Tát Quán Thế Âm một cách nghiêm mật, giải bày, giảng nói Chánh
Pháp vô ngại, đem ánh sáng trí tuệ Phật Pháp cho mọi người. Đó chính là Chuỗi
Ngọc Trân Bảo Pháp Thí giá trị hơn trăm nghìn lạng vàng, xứng đáng đem cúng
dường Đức Phật Ða Bảo vi diệu vô cùng.
Bồ Tát Quán Thế Âm là hình ảnh biểu hiện tượng trưng của sự
cứu độ giải thoát về mặt tâm linh, thuộc lãnh vực tâm tánh và ý thức của Bồ Tát
hạnh, thực hành Bồ Tát đạo. Bồ Tát Quán Thế Âm không phải là một vị thần quyền
linh thiêng có thể ban phước hay thỏa mãn hết sự cầu khẩn van xin do mê tín và
lòng tham ích kỷ của thế gian như nhiều người tưởng tượng. Thâm nghĩa của hạnh
Bồ Tát Quán Thế Âm là sự thanh tịnh cao thượng của tâm từ bi hỷ xả. Mọi người
đều tự có khả năng đoạn tận phiền não, phá trừ tâm ô nhiễm của tham sân si và khai
mở trí tuệ, phát tâm từ bi hỷ xả lợi tha tuyệt đối, thực hành hạnh nguyện Bồ
Tát Quán Thế Âm cứu khổ cứu nạn cho đời.
Hiểu rõ chân lý nhân
quả, con người tự làm chủ bản thân từ sự suy nghĩ, đến lời nói, và
hành động; sống không ỷ lại sự cứu rỗi, van xin, không còn tâm mong cầu, chờ
đợi sự huyền bí linh thiêng hay phép lạ đến từ bên ngoài. Phép lạ chính là sự
chuyển hóa nội tâm, chuyển hóa phiền não thành bồ đề, chuyển hóa khổ đau thành an
lạc. Cầu xin nhiều thất vọng nhiều. Nếu như cầu gì được nấy sẽ tăng trưởng lòng
tham lam và ích kỷ. Còn nếu cầu không được gì cả, chính là con đường dẫn đến
đau khổ triền miên không lối thoát. Cầu bất đắc thì đương nhiên là khổ! Nếu như
không được những gì mong muốn thì hãy vui với những gì đang có, con người ít
mong cầu, ít đòi hỏi, thiểu dục tri túc, ít muốn biết đủ, thì thân tâm được an
ổn tự tại.
Ða dục vi khổ
Sanh tử bì lao
Tùng tham dục khởi
Thiểu dục vô vi
Thân tâm tự tại.
(Kinh Bát Ðại Nhân Giác)
Như lòng cha mẹ thương con, dạy cho
con nhân nghĩa, dạy tri thức sống chân chính, chứ không tùy theo ý muốn vô minh
dại khờ của con trẻ mà ban cho tất cả; đó là hại chứ không phải thương. Tình
thương trong đời cũng cần phải sáng suốt và cân nhắc, lòng từ mẫn của tâm hạnh
Bồ Tát thương tất cả chúng sanh không bỏ ai, nhưng chân lý thuộc về nhân quả
không thay đổi. Chư Phật và Chư Bồ Tát cứu độ chúng sanh là dạy làm lành tránh
dữ, gieo hạt giống từ bi sẽ nhận hoa trái từ bi, tạo hạnh phúc cho người sẽ
nhận kết quả hạnh phúc cho mình.
Trì niệm hồng danh của Bồ Tát Quán Thế
Âm mang ý nghĩa nhắc nhở chúng sanh trở về trí tuệ sáng suốt giác ngộ của Phật
tâm, Phật tánh tự thân. Khi nếm được Hương Vị Phật Pháp, còn gọi là Pháp Vị, con
người sẽ mạnh dạn dứt bỏ lòng tham lam sân hận si mê, và dẹp tan được nạn nước
lửa, dao gậy, xiềng xích, phá trừ tâm ma và trị tận gốc nghiệp ác. Đó là sự tiêu
diệt các nguyên nhân sanh đau khổ triền miên từ trước đến giờ.
. Nạn lửa: Niệm Quán Âm để
bỏ lòng sân hận, nóng giận tiêu diệt, lửa tắt.
. Nạn nước cuốn: Niệm Quán
Âm để bỏ lòng tham dục, nước tham ái tự khô kiệt.
. Nạn dao gậy: Niệm Quán Âm
để bỏ lòng si mê, dao gậy không làm hại được.
. Nạn xiềng xích: Niệm Quán Âm để bỏ lòng bất chánh, xiềng xích
không trói buộc.
. Nạn quỷ la sát: Niệm Quán
Âm để bỏ lòng hung ác, ác tâm tự điều phục.
Có câu chuyện đáng suy ngẫm như sau:
Theo thông lệ các chùa mỗi tháng thường
tổ chức thọ bát quan trai giới một ngày một đêm, giới tử về tham dự rất đông,
có khi không còn chỗ để nghỉ đêm, ngoại trừ phòng thờ linh vị. Không ít lời đồn
đãi về chuyện hiển linh, hay linh ứng của các người đã mất, linh vị được thờ
trong chùa, vì vậy phòng thờ này vẫn thường trống. Với tâm ích kỷ, tinh thần
yếu đuối, con người sẽ dễ bị nhiễu loạn bởi những lời đồn vô căn cứ, sanh tâm sợ
sệt vu vơ. Người biết cách tu, khi thọ bát quan trai, với lòng thanh tịnh, khởi
tâm từ bi, thương xót tất cả chúng sinh dù ở cảnh giới nào và phát nguyện rằng:
“Công đức và phước đức trọn một ngày một đêm
thọ bát quan trai hôm nay, xin tâm nguyện hồi hướng cho tất cả pháp giới chúng
sinh, cùng chư vong linh ký tự tại chùa, đều được giác ngộ Chánh pháp và trọn
thành Phật đạo”.
Khi khởi tâm từ bi thanh tịnh, tương ưng với tâm Chư Phật,
với tâm niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, giới tử thọ bát quan trai không còn tâm ma hay
tâm sợ hãi nữa. Tâm thiện sẽ giúp người biết tu có một giấc ngủ thật an lành,
dù ở bất cứ nơi đâu, và trong bất cứ cảnh ngộ nào.
Tóm lại, Bồ Tát Quán Thế Âm chính là pháp
tu cao quí lợi lạc cho thế gian, tạo phước đức đạo tâm cho người, đem lại ánh
sáng giác ngộ chân thật cho chúng hữu tình. Trước giờ phút Ðức Phật Thích Ca
chứng đạt toàn giác viên mãn, ma quỉ dạ xoa dùng mọi vũ khí tham ái quyến rũ
ngăn cản, nhưng nhờ định lực cao siêu, Ðức Phật an nhiên tự tại tâm không dao
động. Hơn nữa, Ngài phát khởi từ bi tâm, thương xót hóa độ, thu phục tâm ma,
binh khí biến thành hoa tươi cúng dường và sau đó Đức Phật chứng vô thượng
chánh đẳng chánh giác.
Lòng tôn kính cúng dường Chư Phật, Chư Bồ Tát không chỉ
là vật chất thế gian, mà là giá trị nhân cách ở đời, là tâm từ bi hỷ xả hành
đạo, tu hạnh thanh tịnh, tinh tấn trì giới, đạt được trí tuệ bát nhã viên mãn. Đó
chính là “Chuỗi Ngọc Trân Bảo Pháp Thí”, “vô ngã vị tha”, “quên mình vì người” cúng
dường bình đẳng thập phương chư Phật và chư Bồ Tát một cách cao quí tối thượng
nhất. []
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
PHẬT GIÁO CÓ MÊ TÍN KHÔNG
PHẬT TÂM PHẬT TƯỚNG (PHTQ 14)
PHẬT PHÁP NHIỆM MẦU
PHƯỚC BÁU
QUAN ĐIỂM CHỦ TRƯƠNG PHTQ
QUA CƠN MÊ
QUÁN ÂM RA ĐỜI
http://phtq-canada.blogspot.com/2012/02/quan-am-ra-oi.html