TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)

TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)
TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)

Monday 7 January 2013

*** AN LẠC VÀ HẠNH PHÚC

Tôi mong tất cả Tăng Ni là người lãnh đạo Phật tử, quí vị đi và dẫn dắt Phật tử cùng đi đúng theo con đường đức Phật đã đi.
Đừng đi sai, đừng đi lệch, uổng một đời tu, không biết mai kia có gặp lại Phật pháp không?
Làm sao chúng ta đứng vững và luôn luôn không bị những luồng gió nhơ nhớp của thế gian
làm lem luốc,
phải trong sạch vững vàng trên con đường đạo. Đó là chỗ tha thiết mong mỏi của tôi.
HT Thích Thanh Từ
lllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll

AN LẠC VÀ HẠNH PHÚC
TỲ KHƯU THÍCH CHÂN TUỆ

Trên thế gian này, an lạc và hạnh phúc là niềm ao ước, mong muốn của tất cả mọi người, không phân biệt màu da, sắc tộc hay tôn giáo. Người theo bất cứ tôn giáo nào trên thế giới cũng đều muốn có được một cuộc sống an lạc và hạnh phúc ngay hiện tại, trước khi từ giã cõi đời này ra đi, về cõi niết bàn hay thiên đàng. Cuộc sống an lạc và hạnh phúc không phân biệt, không dành riêng cho người giàu nghèo, học thức, địa vị, hay nam phụ lão ấu. Cuộc sống an lạc và hạnh phúc chỉ có với những ai "biết" cách sống an lạc và hạnh phúc mà thôi.

Nhiều khi chúng ta nghĩ an lạc và hạnh phúc do tạo hóa ban cho, do cầu nguyện Trời Phật hay thượng đế, thần linh mà được. Bởi vậy cho nên, khi gặp khổ đau và phiền não, con người thường tìm kiếm bình an trong sự cầu nguyện, hay mong đợi sự ban ơn cứu rổi của thần linh hay thượng đế. Chúng ta thử hỏi có mấy ai được bình yên, được an lạc và hạnh phúc qua sự cầu nguyện suông như thế? Thí dụ như có người bị bệnh, nếu chỉ biết cầu khẩn, van xin bác sĩ, cho mình khỏi bệnh, như vậy chưa đủ. Người đó phải chịu nghe lời dặn, phải chịu uống thuốc, phải chịu tập thể dục, phải chịu kiêng cử, thì mới có nhiều hy vọng khỏi bệnh được. Hơn nữa chúng ta thử suy nghĩ: mình có xứng đáng được hưởng an lạc và hạnh phúc như đã mong cầu hay không? Nếu có, thượng đế là đấng toàn năng, chí công vô tư, đã ban cho chúng ta rồi, đâu cần phải cầu nguyện? Nếu không, chúng ta có cầu nguyện cũng vô ích mà thôi.
* * *
Trong quá khứ xa xưa, việc tin tưởng thần linh chỉ để an ủi những người quá khổ đau chưa tìm được lối thoát.  Ngày nay, nếu con người không chịu tích cực chữa bệnh cho chính mình mà chỉ biết cầu khẩn, van xin, chỉ biết đem toa thuốc đọc tụng hằng trăm ngàn lần thì bác sĩ hay thần linh cũng bó tay mà thôi. Có người còn mê tín hơn, khi gặp cảnh ngộ khổ đau và phiền não, bèn đi coi bói, xem tướng, đoán vận mạng ở những ông bà thầy bói, là những người không còn phương kế sinh nhai nào khác, ngoài chuyện tán dóc dựa theo tâm lý của con người, để gạt người khổ đau nhẹ dạ. Họ bảo người đó về nhà, đổi cái cửa, sửa cái giường, phá cái tường, xoay cái bếp, dán bùa cùng khắp cửa lớn, cửa sổ, cầu tiêu, nhà bếp, với hy vọng được bình yên, được tai qua nạn khỏi, được an lạc và hạnh phúc! Thực ra làm như vậy chỉ gây thêm phiền toái trong gia đình, bởi vì đâu phải ai cũng tin những điều mê tín đó, chứ làm sao có được an lạc và hạnh phúc?

Muốn có được an lạc và hạnh phúc, chúng ta hãy tích cực tìm hiểu thế nào là an lạc, thế nào là hạnh phúc, hạnh phúc từ đâu tới, an lạc từ đâu có, để rồi chúng ta cố gắng thực hiện cho bằng được cuộc sống an lạc và hạnh phúc ngay hiện tại, trên thế gian này, bằng chính quyết tâm và nỗ lực của chúng ta. Người ta ở đời thường quan niệm hạnh phúc qua hình ảnh của một cuộc sống đầy đủ vật chất và tinh thần. Người ta thấy một người có nhà cao cửa rộng, có vợ chồng con cái đàng hoàng, có công ăn việc làm tốt, có địa vị trong xã hội, thì liền cho đó là hạnh phúc và mơ ước có được một cuộc đời như thế. Quan niệm như vậy có nghĩa là người ta chỉ biết cái hạnh phúc bên ngoài, cái hạnh phúc trước mắt của ngày hôm nay, chứ chưa phải là hạnh phúc "thực sự và vĩnh cửu".

Chúng ta hãy chuẩn bị tư tưởng, tìm hiểu thế nào là an lạc và hạnh phúc thực sự và vĩnh cửu. Nếu không, dù có được cái hạnh phúc vật chất như hằng mơ ước, chúng ta cũng không thực sự có được an lạc và hạnh phúc lâu dài. Tại sao vậy? Bởi vì dù người có hạnh phúc vật chất, chưa chắc có an lạc tinh thần. Thí dụ như chúng ta trúng số độc đắc kỳ này, chúng ta có thừa khả năng để sắm xe hơi, xây nhà lầu, tạo dựng một cuộc sống vật chất giàu sang, sung sướng. Nhưng thử hỏi, như vậy, chúng ta có an lạc và hạnh phúc hay không?



Một cuộc sống đầy đủ về vật chất của ngày hôm nay chưa chắc đã tồn tại vĩnh viễn cho đến ngày mai. Cuộc đời biến đổi không cùng, không ai có thể biết được ngày sau của mình sẽ ra sao. Ngày sau sẽ ra sao, là câu hỏi không có câu trả lời. Ðừng đi kiếm câu trả lời nơi mấy ông bà thầy bói, vô ích, phí công, phí sức, phí tiền bạc, phí thời gian. Tại sao vậy? Bởi vì các ông bà thầy bói còn chưa biết ngày sau của họ thế nào nữa kìa! Trước đây, có ai ngờ được rằng ngày nay người dân Việt chúng ta sống lưu lạc khắp nơi trên quả địa cầu này hay không.

Những cái chúng ta có hôm nay, ngày mai có thể bị biến đổi, hư hoại hay mất đi, lúc đó chúng ta sẽ nghĩ sao? Lòng tiếc nuối tiền tài, của cải, tài sản, đâu làm cho cuộc sống của chúng ta được an lạc và hạnh phúc. Những công ăn việc làm khấm khá hôm nay, có thể thất bại ngày mai. Lúc đó, chúng ta sẽ nghĩ sao, lòng tiếc nuối công ăn việc làm hôm qua, đâu làm cho cuộc sống hôm nay được an lạc và hạnh phúc. Những quan hệ bạn bè tốt đẹp hôm nay có thể sẽ biến đổi ngày mai, có thể trở nên thù nghịch, tai hại không thể lường trước được.

Vì là bạn bè chí thân chí thiết với nhau hôm qua, chúng ta đã trót dại tâm sự quá nhiều điều thầm kín riêng tư, về lý lịch, về tình cảm, về công việc làm ăn, bí mật nghề nghiệp chẳng hạn, ruột gan phèo phổi đem ra phơi ráo, để rồi hôm nay, quan hệ không còn tốt đẹp nữa, họ đem những chuyện biết được công khai trước dư luận, trước mọi người, chúng ta nghĩ sao? Lòng bực tức, oán thù, giận dữ, đâu làm cho cuộc sống của chúng ta được an lạc và hạnh phúc.

Những người thân thích, quyến thuộc như cha mẹ, anh chị em, vợ chồng, con cái của chúng ta, đâu phải vĩnh viễn tồn tại trên thế gian này. Ðến lúc những người thân thuộc đó có mệnh hệ nào, hoặc từ giã chúng ta ra đi, chúng ta nghĩ sao? Lòng thương yêu, trìu mến, tiếc thương, đâu làm cho cuộc sống của chúng ta được an lạc và hạnh phúc.

Tất cả những của cải vật chất, những thứ có hình tướng, mà chúng ta có thể dùng cặp mắt thường để nhìn thấy được, dùng bàn tay để xúc chạm được, trên thế gian này, đều phải trải qua bốn giai đoạn: "sinh, trụ, dị, diệt". Nghĩa là mọi thứ của cải vật chất, có hình tướng, nhỏ như cái bàn, cái ghế, nhà cửa, cây cối, lớn như dãy núi, quả địa cầu, đều được hình thành, bằng cách này hay cách khác, gọi là "sinh", hiện diện trên thế gian này một khoảng thời gian nào đó, gọi là "trụ", tồn tại được vài năm hay vài chục năm, vài trăm năm hay mấy ngàn năm, thậm chí vài triệu năm, cũng phải đến giai đoạn biến đổi, hư hoại, gọi là "dị", và cuối cùng cũng tan rã, biến mất, gọi là "diệt".

Chúng ta nên biết thêm rằng các thứ vật chất, có hình tướng nói trên đây, bao gồm cả cái thân thể nặng mấy chục ký lô của chúng ta, trong kinh sách thường gọi là "thân tứ đại", gồm có địa, thủy, hỏa, phong, tức là đất, nước, lửa, gió hợp thành này, hay nói cách khác, cái thân bằng đất sét nhồi với nước rồi phù hơi nóng vào mà thành, cũng phải trải qua bốn giai đoạn "sinh, trụ, dị, diệt" không thể khác được!

Chúng ta được cha mẹ sinh ra, lớn lên, trưởng thành, trụ thế được vài chục năm, rồi đến thời kỳ cơ thể biến dị, trở nên già nua, da dẻ nhăn nhúm, lưng còm, má hóp và cuối cùng rồi cũng bị hủy diệt. Ðược trải qua đủ bốn giai đoạn "sinh, trụ, dị, diệt" như thế, chúng ta thực sự có nhiều phước báo, sống được trăm tuổi, do tích lũy phước thiện nhiều đời trước và đời này.

Cũng có biết bao nhiêu người trên thế gian này không trải qua đủ bốn giai đoạn như thế. Có người chỉ có "sinh" mà không đến được các giai đoạn: "trụ, dị, và diệt"! Có người chỉ có "sinh" "trụ" một thời gian ngắn, cơ thể chưa được "dị", thì đã bị "diệt" rồi! Ðó chính là những người đã ít tu nhơn tích phước, lại còn tạo nhiều nghiệp báo xấu! Có tu nhơn tích phước, mới hưởng lộc và trường thọ. Sống lâu mà thiếu phước thì khổ hơn là chết sớm cho rồi!

Thông thường, chúng ta chỉ thấy người khác qua đời mà không bao giờ dám nghĩ tới có lúc nào đó, chúng ta cũng phải từ giã cõi đời này như bao nhiêu người khác. Nếu lúc nào cũng luôn luôn nhớ nghĩ được như vậy, chúng ta sẽ không còn phiền não vì những chuyện "dù lớn dù nhỏ" trên thế gian này nữa.

Tại sao vậy? Bởi vì có ai biết ngày mai mình chết mà hôm nay vẫn còn hơn thua, vẫn còn muốn thưa kiện người khác ra tòa, vẫn còn tranh đấu như trâu-bị-đánh hay không? Chắc là không, vì không ai muốn khi mình nằm xuống, người ta đến khạc nhổ trên quan tài của mình chứ. Nhưng vì tánh nóng giận, sân hận, tự ái quá cao, ta đây là ngon nhất trong thiên hạ, cho nên không dằn được. Hơn nữa, vì thường nghĩ rằng "đời còn dài", cho nên con người khó nhịn được những điều bất như ý đầy dẫy trên cõi đời này.


Có người khi thấy một người khác chết thì liền nghĩ ngay rằng mình cũng có ngày phải chết, cho nên lập tức suy nghĩ, tìm đường thoát khỏi sanh tử luân hồi. Họ cố gắng tìm hiểu để khám phá ra "con người chân thật" của chính mình, ngoài cái thân xác đang mang và sẽ bỏ lại khi ra đi về bên kia thế giới. Ðó là hạng người có trí tuệ cao. Ðạt được "con người chân thật" thì chúng ta không còn bị phiền não khổ đau chi phối, chắc chắn sẽ tìm được cuộc sống an lạc và hạnh phúc ngay trên cõi đời này, trên thế gian này. Tại sao vậy? Bởi vì sống được với "con người chân thật" của chính mình thì chúng ta đã "giác ngộ và giải thoát", đã bước ra khỏi những khổ lụy của cuộc đời. Nhưng làm sao đạt được, làm sao sống được với "con người chân thật" là vấn đề chúng ta cần nghiên cứu, cần tìm hiểu cho thấu đáo, cho tường tận.

Việc này đòi hỏi chúng ta phải phát tâm bồ đề một cách kiên cố, một cách dũng mãnh, phải phát nguyện tu học theo đúng Chánh Pháp, trong suốt một thời gian cần thiết nào đó, tùy theo căn cơ trình độ và nỗ lực của mỗi người. Mục đích cứu kính của đạo Phật nhằm chỉ bày cho tất cả mọi người biết được "con người chân thật" của chính mình, để không còn mê mờ, trôi lăn trong vòng sinh tử luân hồi. Chứ không phải như chúng ta thường thấy ở những bước đầu, khi mới đến với chùa chiền. Ðạo Phật không chỉ có những nghi lễ tụng niệm, cầu an, cầu siêu, cầu phước mà thôi.

Có người thấy người khác chết chỉ xúc động một lúc, nhưng khi thấy người thân qua đời liền tỉnh ngộ, nhận biết "cuộc đời là vô thường". Vô thường nghĩa là không có gì trên thế gian này tồn tại vĩnh viễn, kể cả thân xác này. Cho nên không còn tham đắm chuyện tranh danh đoạt lợi nữa, quay về suy tư, tìm hiểu đâu là sự thật của con người, đâu là sự thật của cuộc đời. Từ đó, con người cũng tìm được cuộc sống an lạc và hạnh phúc.

Có người thấy người khác chết, thấy người thân qua đời cũng không ảnh hưởng gì, cho đến lúc chính bản thân suýt chết vì một tai nạn nào đó, hay may mắn thoát khỏi một cơn bệnh hiểm nghèo, thập tử nhứt sanh, liền thức tỉnh, nhận biết rõ ràng cuộc đời là "khổ nhiều vui ít", mọi của cải vật chất là vô thường, cuối cùng không có gì trường tồn, liền mạnh mẽ dứt bỏ mọi thứ đau khổ phiền não hệ lụy trên đời. Khi dứt bỏ được, con người bắt đầu sống cuộc đời còn lại trong an lạc và hạnh phúc.

Ðại đa số còn lại thì không như vậy. Con người mãi lăn lộn trong cuộc sống của thế gian, không có đủ thời giờ để ăn uống, nghỉ ngơi, lo cho chính mình, thấy người khác chết thì mặc kệ, mình thì "còn lâu mới chết", đời mình còn dài mà, hãy lo làm ăn tranh đấu, kiếm tí danh gì với bà con, cho rỡ ràng tông môn dòng họ, cho sáng mặt đẹp mày, đồng thời kiếm cho thiệt nhiều tiền, bất chấp mọi thủ đoạn, lường gạt sang đoạt, vu khống cáo gian, thưa gởi kiện tụng, để hưởng thụ cho sung sướng tấm thân. Các việc khác để người khác lo, không phải chuyện của mình, người bị thưa bị hại khổ sở thế nào cũng mặc kệ.

Ðến lúc lâm chung, sắp lìa đời, họ thỉnh sư, cầu cha, mời ông, mời bà, đến chật cả nhà, tụng kinh cầu nguyện, để cho mình được vãng sanh tây phương cực lạc, cho mình được tiếp tục sung sướng, cho mình được lên thiên đàng, để hưởng phước đời đời trên đó. Ðem tiền hối lộ các sư, các cha như vậy là được như ý nguyện hay sao? Trên các cõi lành đó, chỉ có các bậc thượng thiện nhơn, tức là các người toàn thiện mà thôi. Ðâu phải lắm tiền nhiều của, đem nhờ thiệt là nhiều người khác cầu nguyện cho mình mà đặng đâu.

Khi còn sống trên thế gian này, họ chỉ biết có mình, gia đình mình, chỉ biết có "mình và mình, tiền và tiền", không biết tu tâm dưỡng tánh, cho nên không được an lạc và hạnh phúc, cuộc sống chìm đắm trong phiền não khổ đau, đấu tranh giành giựt. Ðến khi chết, một cách chắc chắn, họ chỉ được tiêu diêu nơi miền cực lạc, được siêu thăng về cõi thiên đàng, qua các phân ưu trên báo chí mà thôi.

Hiểu được cuộc sống là vô thường, thay đổi không dừng, tâm ý cũng biến đổi từng giây từng phút, chúng ta đã được phân nửa cuộc sống an lạc và hạnh phúc. Tại sao vậy? Bởi vì hiểu được như vậy, khi gặp tai biến của cuộc đời, nay còn mai mất, nay thịnh mai suy, nay lời mai lỗ, nay vui mai buồn, nay khen mai chê, nay thân mai thù, nay thương mai ghét, nay bốc mai bôi, nay lên mai xuống, nay vua mai giặc, chúng ta liền biết ngay đó là "thập như thị", tức là "mười điều đương nhiên".  Trên cõi đời này, thế gian thường tình là như vậy đó, chúng ta đừng ngạc nhiên, đừng thắc mắc, đừng tức giận, đừng thở than, đừng trách hờn, đừng nghĩ suy, đừng bận tâm. Nhờ đó, chúng ta không còn khổ đau và phiền não nữa.

Trên thế gian này, chúng ta thấy đầy dẫy những sự thăng trầm: lúc được lúc thua, lúc thắng lúc bại, lúc lời lúc lỗ, lúc thịnh lúc suy, lúc khen lúc chê, lúc tâng bốc lúc bôi bác, lúc đau khổ lúc hạnh phúc. Trong kinh sách, những bước thăng trầm như vậy được gọi là "bát phong". Bát phong gồm có bốn điều phước báo và bốn điều quả báo, hoặc bốn điều như ý và bốn điều bất như ý, chia thành bốn cặp: "lợi và suy, hủy và dự, xưng và cơ, khổ và lạc". Ðó là tám ngọn gió trên thế gian, lúc nào cũng không ngừng thổi, hết cơn gió này rồi đến cơn gió khác, có lúc gió thổi hiu hiu mát mẻ khỏe khoắn, có khi gió thổi mãnh liệt kinh hồn, tàn bạo khốc liệt trong các cơn giông bão.

Lúc gặp ngọn gió "lợi lộc" thổi đến, như trúng số chẳng hạn, thì tâm của chúng ta sẽ nổi sóng ngay, có người mừng quá đứng tim hết thở. Lúc gặp ngọn gió "suy sụp" thổi đến, thời cuộc gây nên tán gia bại sản, sự nghiệp điêu tàn, thì tâm của chúng ta sẽ nổi sóng ngay, có người tiếc của quá nên tự vận chết. Lúc gặp ngọn gió "hủy báng" thổi đến, bị chê bai, bị bôi lọ, bị nói xấu thì tâm của chúng ta sẽ nổi sóng ngay. Lúc gặp ngọn gió "danh dự" thổi đến, được viết sách đề cao, được phát bằng khen tặng, vui vẻ khôn cùng, thì tâm của chúng ta sẽ nổi sóng ngay.

Lúc gặp ngọn gió "xưng tán" thổi đến, được tâng bốc, nêu tên ngợi khen, thì tâm của chúng ta sẽ nổi sóng ngay. Lúc gặp ngọn gió "cơ bài" thổi đến, bị chỉ trích, bài bác, đích danh phê bình, thì tâm của chúng ta sẽ nổi sóng ngay. Lúc gặp ngọn gió "khổ đau" thổi đến, chẳng hạn như gặp hoạn nạn, người thân qua đời, thì tâm của chúng ta sẽ nổi sóng ngay. Lúc gặp ngọn gió "hoan lạc" thổi đến, được sự hỷ hạ mừng vui, thì tâm của chúng ta sẽ nổi sóng ngay.

Người nào có công phu tu tập, có bản lãnh chịu đựng được tám ngọn gió độc này thổi đến mà
"thước-ca-ra tâm" vẫn "như như", vẫn "vô động chuyển", tức là tâm trí của người đó vẫn không lay động, không khởi niệm, không vui mừng hớn hở, cũng không âu lo sợ sệt, dù gặp bất cứ hoàn cảnh nào cũng vậy, người đó được gọi là "bát phong xuy bất động", có nghĩa là tám gió thổi chẳng động, dĩ nhiên người đó có cuộc sống an lạc và hạnh phúc vậy.

Ngoài biển khơi lúc nào cũng có gió thổi, tùy theo sức gió, mặt biển sẽ có sóng nhỏ, sóng to tương ứng. Tâm của chúng ta ví như mặt biển, khi có chuyện xảy ra, ví như tám gió thổi đến, thì lập tức nổi sóng ngay. Thí dụ như thấy người oán thù, nghe lời chửi mắng, nhớ chuyện thua thiệt, thì tâm của chúng ta lập tức nổi sóng nổi sân ngay. Chúng ta muốn có cuộc sống an lạc và hạnh phúc thì nội tâm không nên nổi "sóng tham, sân, si" mỗi khi "tám gió" thổi đến. Còn nếu cơn sóng có "lỡ" nổi lên rồi, thì hãy giác ngộ ngay, hãy "biết" ngay rằng tâm của chúng ta đang nổi sóng. Nhờ đó sóng sẽ lặng ngay và chúng ta hãy mỉm một nụ cười cho thật tươi tắn! Thế là hết, phiền não đã qua đi rồi! Tuy nhiên, sóng lặng nhanh hay chậm là do công phu quán chiếu mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi khắc của mỗi chúng ta. Cũng như chiếc xe có thắng ăn hay không vậy thôi. Thông thường thì chúng ta ai ai cũng "tới luôn bác tài" cho hả giận, không thể dừng được, không thể nhịn nổi, mỗi khi tám gió thổi đến.

Trong gia đình, nếu người vợ có lỡ tay đập bể một món đồ bình thường, hoặc quan trọng và quí giá như cái bình cổ đời Khang Hy đi nữa, đức lang quân cũng không nên vì thế mà nặng lời tiếc của, làm cho gia đạo bất an, huống gì những chuyện lặt vặt nhỏ mọn khác. Cặp vợ chồng như vậy khỏi cần phải đi coi bói, xem chừng nào hết tiểu hạn hết đại hạn, chừng nào tai qua nạn khỏi, chừng nào mới được bình yên. Thực ra đại hạn hay tiểu hạn là tùy ở mình hết trơn, bao lâu mình còn lầu bầu tiếc của thì bấy lâu mình còn phải xức dầu cù là cho bớt nhức đầu, cho đỡ đau bụng. An lạc và hạnh phúc ở ngay trong gia đạo của họ rồi, khỏi cần phải kiếm, nhọc công mệt sức. Cũng vậy, khi ông chồng có thất bại trong công việc hùn hạp làm ăn, thua lỗ, thậm chí có đứt vốn, vỡ nợ đi chăng nữa, vị phu nhân hiểu biết cũng không vì thế mà nặng lời tiếc của, không đay nghiến: phải chi ông để tiền cho tôi mua hột xoàn vừa chưng diện được đẹp đẽ, vừa để dành làm của sau này!

Ðược như vậy, gia đạo sẽ bình yên, cuộc sống được an lạc và hạnh phúc chắc chắn, không nghi. Những cặp vợ chồng như vậy không cần đến gặp bác sĩ tâm thần, tâm lý gì cả. Bởi lẽ, dù có than trời trách đất, la lối om sòm chăng nữa thì cũng không có cách nào bù lại những sự mất mát vật chất cũng như tinh thần, chuyện gì đã qua thuộc về quá khứ, hãy để cho nó qua đi, đừng tiếc nuối, đừng than van, đừng nhớ tưởng, chẳng ích lợi gì. Trong Kinh Kim Cang, Ðức Phật có dạy: "Quá khứ tâm bất khả đắc", chính là nghĩa như vậy.

Người ta thường tự hỏi: Tại sao tự nhiên tôi khổ quá vậy, tại sao tự nhiên tôi bị bệnh vậy, tại sao tự nhiên tôi bị người khác mắng vậy, tại sao tự nhiên có đứa bé mới sanh ra đã bị tật nguyền, lục căn khiếm khuyết?  Con người không thể giải thích được những câu hỏi tại sao "tự nhiên" trên đây, bèn đổ hết lên đầu một nhân vật, do chính con người tưởng tượng ra, rồi gọi đó là Trời, là Thượng Ðế, là Tạo Hóa. Người ta thường nói: Nhờ Trời thương, nên tôi giàu có, sung sướng. Tại Trời trớ trêu, không thương yêu, muốn trừng phạt, nên tôi khổ quá, nên tôi bị bệnh hoạn, nên tôi bị tai nạn liên miên! Cái gì cũng nhờ trời tại trời hết trơn.

Ông Trời hay Bà Trời nếu có thực, và là đấng có quyền năng tuyệt đỉnh, là đấng chí công vô tư, là đấng có lòng bác ái bao la, tại sao lại "ban phước giáng họa" một cách tùy tiện, một cách bừa bãi như thế, tại sao không ban cho tất cả con người một cuộc sống an lạc và hạnh phúc ngay trên thế gian này, tại sao không dẹp hết loài yêu ma quỉ quái, để cho cuộc đời được tươi vui đẹp đẽ? Trời lại hứa hẹn rằng: người nào chịu thờ phượng, mới được cho lên thiên đàng hưởng phước đời đời, còn tất cả mọi người khác không chịu tin như vậy, không chịu thờ phượng, bị cho xuống hỏa ngục hết trơn!
Cái cõi thiên đàng phe đảng, ích kỷ như vậy, đâu khác gì thế gian này?

Cái niềm tin vô căn cứ nơi trời đất quỉ thần ma quái linh thiêng, không luận lý được như vậy, đang dần dần bị đẩy lui, theo đà phát triển của khoa học, trên khắp thế giới hiện nay. Số người tin tưởng như vậy, càng ngày càng sáng mắt ra, càng giảm dần, nhờ học hiểu chân lý. Người đời nay nhứt định không để cho những kẻ lợi dụng đức tin tôn giáo lừa gạt thêm nữa. Những người này bày ra những câu chuyện huyễn hoặc, linh thiêng giả tạo, nào là tượng đá biết khóc, nào là bức tranh chảy nước mắt, nào là ngày tận thế sắp đến, nào là thánh thần cứu người chết sống lại, nào là thần linh hiện ra nơi này nơi nọ, trên đám mây, trên ngọn cây, trong hốc đá, bên suối nước, dạy điều này, bảo điều kia, tiên tri điều nọ, điều nào cũng có lợi cho nhóm người ít ỏi của họ mà thôi.

Con người có trí tuệ tối thiểu không thể chấp nhận, không thể tin được những điều vô lý như vậy. Thử hỏi thánh thần cứu người chết sống lại làm chi, bởi vì sau đó người này cũng phải chết mà thôi, có ai sống mãi không chết đâu, kể cả ông thánh ông thần kia. Lúc đó ai đến cứu họ lần nữa? Thánh thần hiện ra có ích lợi gì cho việc tu tâm dưỡng tánh của chúng ta chứ? Hay chỉ để gánh tội thay cho chúng ta?

Thực ra, trên thế gian này không việc gì tự nhiên mà có, mà sinh ra đâu, cũng không có trời nào ban phước giáng họa một cách bừa bãi như vậy cả.

Chúng ta cần nên biết sự thực là:
Tất cả mọi sự việc đều do nhân duyên sanh ra.
Tất cả mọi sự việc đều do nhân duyên diệt đi.

Thí dụ như cái cây không phải tự nhiên mọc lên được, mà phải do nguyên nhân là hạt giống gieo xuống đất, rồi nước tưới, ánh sáng và nhiều yếu tố khác trợ duyên, mới có được. Gieo nhân là hạt giống cam thì được cây cam và gặt hái quả cam. "Nhân nào quả nấy" là định luật. Khoa học cũng thừa nhận như vậy. Ăn uống không vệ sinh, không điều độ là nguyên nhân, hậu quả là bị bệnh.

Thời nay, người bị bệnh thì đi bác sĩ khám bệnh và cho thuốc uống, chứ cầu nguyện thượng đế, uống nước sông nước suối, tụng kinh thì làm sao khỏi bệnh cho được? Nếu tụng kinh cầu nguyện thượng đế, uống nước sông nước suối, mà khỏi bệnh, thì bác sĩ, dược sĩ nên giải nghệ, bệnh viện đóng cửa cho rồi. Bị bệnh không do trời phạt, hết bệnh không do trời thương. Hút sách, cờ bạc là nguyên nhân, hậu quả là tán gia bại sản, vợ bỏ con chê. Chơi xấu, đâm bị thóc thọc bị gạo, lường gạt là nguyên nhân, hậu quả là bị chưởi mắng, khinh khi. Lười biếng làm việc là nguyên nhân, hậu quả là nghèo khó. Lười biếng học hành là nguyên nhân, hậu quả là dốt nát. Âm mưu hại người là nguyên nhân, hậu quả là bị quả báo người hại lại.

Siêng năng làm việc, biết tiết kiệm là nguyên nhân, kết quả là giàu có. Chăm chỉ học hành là nguyên nhân, kết quả là đỗ đạt. Tốt bụng giúp người là nguyên nhân, kết quả là được mến chuộng. Tâm hồn khoáng đạt thoải mái, không chứa chấp thù hận, không chứa chấp chuyện nhỏ mọn, không tham sân si, không thành kiến, không ganh tị, không đố kỵ, không tị hiềm, không ganh ghét, không tranh đua, không hơn thua, không kỳ thị, không so đo, không suy lường, không tính toán, không cố chấp, không quan trọng hóa mọi việc lớn nhỏ, không phân biệt phe phái, không thị phi nhơn ngã là nguyên nhân, kết quả là cuộc sống an lạc và hạnh phúc vậy.

Thường thì chúng ta thấy quả báo nhãn tiền, sinh sự thì sự sinh, gieo gió thì gặt bão, ở hiền thì gặp lành, làm thiện thì hưởng phước. Tuy nhiên, cũng có nhiều người thắc mắc: Tại sao có người ăn hiền ở lành, biết tu tâm dưỡng tánh, thường xuyên đi chùa, đi nhà thờ, không làm việc gì bất nhơn thất đức, nhưng họ cứ bị tai họa, bệnh hoạn, họa vô đơn chí, xui xẻo dồn dập? Trái lại, có người thật điêu ngoa, hung tợn, lừa thầy phản bạn, làm đủ mọi chuyện tồi tệ, ném đá dấu tay, không chừa bất cứ thủ đoạn, phương tiện gian manh nào, nhằm đoạt cho bằng được mục đích vị kỷ của họ, tại sao họ vẫn cứ phây phây, nhởn nhơ, ăn nên làm ra, tậu nhà sắm xe?

Dường như công lý, lẽ phải không có trên quả địa cầu này vậy! Thượng đế, nếu thực là đấng toàn năng, có phép lạ siêu việt, cầu gì cho nấy, cứu người chết đặng sống, sao không dẹp trừ sạch hạng người như vậy, cho thế gian này biến thành thiên đàng, có phải là tốt đẹp vẹn toàn hay không?

Trong lúc khoa học còn quá phôi thai chưa giải thích được các hiện tượng vật lý, thiên văn, cho nên con người bèn tưởng tượng, bèn nặn ra thượng đế, để chính con người nương tựa vào đó, cầu nguyện tìm sự bình an tâm hồn tạm thời trong lúc sợ hãi, khổ đau mà thôi. Luật nhân quả giải thích được các việc đó trong ba thời: quá khứ, hiện tại và vị lai. Có những nguyên nhân được tạo ra trong quá khứ, kết quả hay hậu quả nhận được trong hiện tại. Có những nguyên nhân được tạo ra trong hiện tại, kết quả hay hậu quả nhận được trong vị lai.

Trong Kinh A Hàm, Ðức Phật có dạy:
Dục tri tiền thế nhân, đương kim thọ giả thị. Yếu tri lai thế quả, kim sanh tác giả thị.
Nghĩa là:
Muốn biết kiếp trước mình đã làm gì, hãy nhìn cuộc sống của mình hiện tại. Muốn biết kiếp sau mình sẽ ra sao, hãy nhìn việc mình đang làm hiện tại.

Nếu hôm nay mình dốt nát nghèo nàn khốn khổ, gặp tai nạn liên miên, thậm chí chết người, thì đó là quả của cái nhân tạo ác nghiệp và không biết làm việc phước thiện trước đây, chứ không có chuyện thương ghét tùy tiện của thượng đế nào cả. Nếu hôm nay mình thông minh, đủ ăn đủ mặc, thì đó là quả của cái nhân tu tâm dưỡng tánh, tích phước tích đức trước đây nhiều đời và đời này. Hôm nay mình được bình an là quả của cái nhân mình không tạo sự bất an cho kẻ khác, dù đó là kẻ thù. Hôm nay mình được hạnh phúc là quả của cái nhân mình không phá hoại hạnh phúc kẻ khác, dù đó là kẻ thù.

Tùy theo "cái nhân" là hạt giống loại nào, sau khi được gieo xuống đất, phải chờ đủ "thời tiết nhân duyên", mới gặt hái "cái quả" của nó, có khi sớm, cũng có khi muộn. Cũng có khi gặt phải quả chanh chua, nhưng có thể đem bán đi, mua quả cam ngọt. Ðó là trường hợp chúng ta đã "lỡ" gieo nhân xấu, nhưng nhờ thiện tri thức nhắc nhở, chúng ta biết phục thiện, quay trở về chánh đạo, chuyển ba nghiệp xấu ác thành ba nghiệp thiện lành, làm nhiều việc phước đức, tu tâm dưỡng tánh, chúng ta có thể gặt "quả tốt", hay ít ra cũng giảm bớt được "quả xấu". Tức là chuyện lớn hóa nhỏ, chuyện nhỏ hóa không. Cũng ví như gieo nhân biết tiết kiệm, con người có thể gặt quả giàu có, hay giảm bớt được nợ xưa đó vậy.

Trong Kinh Hoa Nghiêm, Ðức Phật có dạy: "Nhứt thiết duy tâm tạo". Nghĩa là tất cả đều do tâm của chúng ta tạo ra. Muốn có quả thiên đàng trong tâm, chúng ta hãy gieo nhân từ bi hỷ xả, bác ái vị tha. Gieo nhân ích kỷ, hận thù, tham lam, sân hận, si mê, nhứt định gặt quả địa ngục trong tâm, chắc chắn không sai, chỉ có sớm hay muộn mà thôi. Thiên đàng địa ngục hai bên. Ai ngộ thì nhờ, ai mê thì sa.
Thiên đàng chẳng chứa quỉ ma. Ai người tâm thiện tìm ra thiên đàng. Chúng ta đã thấu hiểu lý lẽ chân thật của cuộc đời là vô thường, không có gì tồn tại vĩnh viễn, không có gì là tự nhiên sanh. Luật nhân quả áp dụng trong ba thời: quá khứ, hiện tại, vị lai. Sinh sự thì sự sinh. Nhân nào thì quả nấy. Gieo gió thì gặt bão. Có lửa thì có khói. Cầu nguyện chỉ đem lại sự bình an tâm hồn tạm thời. Bình an thực sự chỉ có cho người thiện tâm mà thôi. Thiên đàng, địa ngục tuy là hai tâm trạng khác nhau, nhưng tất cả thực sự chỉ là các trạng thái ở trong tâm của tất cả chúng ta mà thôi.

Ngày xưa, có người đến hỏi Ðức Phật: Bạch Ngài, có kinh điển nào có thể đọc tụng để cầu nguyện cho đệ tử được Niết bàn hay không? Ðức Phật đáp: Không! Tại sao vậy?

Thí dụ như quăng hòn đá xuống nước, hòn đá nặng tức nhiên chìm lĩm, không có kinh điển nào đọc tụng, có thể cầu nguyện cho cục đá nổi lên được. Ðem dầu đổ xuống nước, dầu nhẹ tức nhiên nổi trên mặt nước, không có kinh điển nào đọc tụng, có thể khiến cho dầu chìm được. Nghĩa là khi con người tạo nghiệp bất thiện thì bị sa đọa, làm việc xấu ác thì tâm trạng bất an, không thể nhờ cúng kiến cầu an, mà được bình an, yên ổn, không thể nhờ cầu hồn, cầu siêu mà người đó có thể thăng lên niết bàn hay thiên đàng được.

Cũng vậy, khi con người biết làm việc phước thiện, biết tu tâm dưỡng tánh, biết quán chiếu, biết suy tư lẽ vô thường, lý nhân quả nhân duyên của cuộc đời, thì nhứt định khi sống được an lạc và hạnh phúc. Khi ra đi, người đó được an lành, siêu thoát, tái sanh nơi nhàn cảnh. Không ai có thể đem kinh điển nào đọc tụng, hay rủa xả, hoặc không thể vì người đó không theo tôn giáo này, không theo tôn giáo kia, hoặc vì bất cứ lý do gì, mà người đó có thể đọa vào địa ngục được. Tâm của họ trong sáng, thanh tịnh, tự tại, nhẹ nhàng, thánh thiện hiện đời, nhứt định khi ra đi, được siêu thăng cõi lành, cõi thiện mà thôi, không có gì nghi ngờ cả. Cũng như cái cây bình thường mọc nghiên về bên nào, khi bị cưa xuống, sẽ ngã về bên đó vậy. Chí công vô tư đúng nghĩa phải là như vậy.

* * *
Tóm lại, cuộc sống an lạc và hạnh phúc không do cầu nguyện suông mà được, không có một nguyên tắc nào, một phương pháp nào mà tạo ra. Cuộc sống an lạc và hạnh phúc không là độc quyền của bất cứ ai theo một tôn giáo nào, bất cứ ai thuộc một dân tộc nào, hoặc bất cứ ai thuộc một giới nào. Người quá khôn ngoan, lanh lợi ở đời không thể có cuộc sống an lạc và hạnh phúc.

Người quá khờ dại, u mê, ngu muội cũng không thể có cuộc sống an lạc và hạnh phúc.
Cuộc sống an lạc và hạnh phúc chỉ có nơi tất cả những ai biết tu tâm dưỡng tánh, biết quên mình vì người, biết làm việc phước thiện, biết quán chiếu, suy tư lẽ vô thường, lý nhân quả, nhân duyên của cuộc đời. Tức là cuộc sống an lạc và hạnh phúc chỉ có nơi những người "biết" sống an lạc và hạnh phúc mà thôi. Chí công vô tư là ở chỗ đó vậy. []

Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ
Chủ-Nhiệm VP.PHTQ.CANADA
108 – 123 RAILROAD ST.,
BRAMPTON, ON, L6X-1G9, CANADA
TEL: 647-828-1016
VP.PHTQ.CANADA Email: cutranlacdao@yahoo.com



ÁNH SÁNG TỪ CÂU KINH PHẬT
10.9.2013

THÍCH NỮ CHÂN LIỄU

Thời gian qua thật nhanh, một lần nữa “Xuân Lạnh” lại về trên đất nước Canada “Đất lạnh nhưng tình nồng ấm”. Một chút gió nhẹ, một chút lạnh lạnh của mùa xuân cùng màu trắng tuyệt đẹp của hoa tuyết, người con Phật mọi nơi quên lạnh, quên đi những bận rộn suốt một năm qua, tạm quên những phiền hận toan tính, hân hoan tụ tập về chùa, hy vọng tìm lại sự ấm áp tình đồng đạo, hay tìm kiếm một chút hương vị an lạc giải thoát của thiền môn.

Có những người trong đạo Phật theo truyền thống chỉ đến chùa vào những dịp đầu năm mới, cầu phước cho mình và gia đình đầu năm đến suốt năm bình yên, mong cầu tài cầu lộc dồi dào hoặc đền ơn Phật Tổ Bồ Tát đã giúp gặt hái nhiều may mắn trong năm qua. Cũng có Phật tử đến chùa rất nhiều lần trong năm, thường được xem như là những “Phật tử thuận thành” vẫn muốn cầu nguyện và đền ơn. Có vị vì thích công quả nấu cơm, quét dọn, cắm hoa, biết tụng kinh và bái sám rất rành. .. Cho dù cái nhân duyên về chùa có khác nhau, nhưng thiện pháp như tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền, chay tịnh hay nghe thuyết pháp trong dịp đầu năm mới cũng đều là một duyên lành cần siêng năng hành trì.


CẢM NHẬN ĐƯỢC TÂM Ý TRONG KINH

Mục đích và cứu cách của đạo Phật là con đường thoát ra khổ nạn, Đức Phật mà chúng ta lễ lạy là Bậc Nhất Thiết Trí ( trí tuệ cao tột nhất),như vậy duyên lành về chùa ngoài việc cầu phước còn phải thưa hỏi tìm hiểu giáo lý phương cách phá trừ vô minh, mồi ngọn đuốc trí tuệ từ những lời Phật dạy, thấm mhuần tâm ý câu kinh. Là người con Phật công phu thuần thành tụng đọc khàn tiếng, lạy kinh đến thân xác rã rời mệt mõi, như vậy thật xứng đáng được người thế gian ngưỡng mộ kính phục.  Nhưng ý thức mơ màng sự tự tôn trong hào quang giả tạo, thực tế thì muốn chạy trốn hoàn cảnh, chạy trốn phiền não, né tránh tội lỗi bản thân, khi đó con người thật sự khó hiểu và cảm nhận thấu suốt được tâm kinh, ý nghĩa kinh Phật dạy gì?..Thì tụng kinh hành trì chỉ là sự vay mượn của bản ngã, dễ phát sinh ra nhiều căn bịnh tự hào hơn thua, so sánh, khen mình chê người đưa người tu nhìn ra bên ngoài nhiều hơn là tự soi rọi vào trong nội tâm. Khi nào thấy rõ con người thật của chính mình xấu tốt ra sao, phát tâm sám hối chuyển đổi hướng thiện là đã có được ánh sáng trí tuệ. Hạnh phúc và bình an thật sự chỉ hiện hữu khi nhận ra những khổ đau, phiền não, giả danh, nhân ngã thị phi đều không có thật.

Trong kinh Pháp Bảo Đàn một vị Tăng hiệu Pháp Đạt khi đến lễ Lục Tổ khoe: “ Tôi đã tụng Kinh Pháp Hoa đến ba ngàn bộ rồi”. Lục Tổ bèn nói kệ dạy rằng:

Lạy vốn phá tự kiêu,

Đầu sao không sát đất,

Hữu ngã tội liền sanh,

Quên công phước thật lớn.

Người tên là Pháp Đạt,

Siêng tụng hoài không dứt,

Tụng không theo âm thinh,

Minh tâm mới gọi Phật,

Ngươi nay bởi có duyên,

Ta mới nói chân Pháp,

Tin chắc Phật không lời,

Liên hoa không do  miệng.

Tâm mê Pháp Hoa chuyển

Tâm ngộ chuyển Pháp Hoa,

Tụng lâu không rõ ý,

Kinh nghĩa ấy thù ta.



Tăng Pháp Đạt nghe kệ xong, liền ăn năng sám hối: “Đệ tử tụng Kinh nhưng chưa hiểu được nghĩa lý của Kinh, chỉ tụng theo văn tự, tâm thường cao mạn cũng có chỗ nghi chưa thấu rõ, từ nay xin giữ hạnh khiêm tốn. Kính xin Ngài thương xót lượt giải nghĩa lý trong Kinh”. (Kinh Pháp Bảo Đàn)

Thông thường khi nhìn ngắm một bức tranh, đa số chỉ thấy được cái đẹp cái xinh tươi của cây cảnh, hoa lá hoặc màu sắc rực rỡ một cách phiến diện hời hợt, ít ai cảm nhận hay động tâm hiểu được ý nghĩa mà người họa sĩ muốn gởi gắm vào trong tranh. Cũng vậy khi lễ Phật, tụng kinh người Phật tử có quan niệm tụng kinh phải thuộc lòng, tụng kinh một ngày phải hai thời, ba thời hoặc công phu lạy Phật từng câu từng chữ trong kinh, cầu nguyện thì phải thành tâm … thì mới đúng là nhà tu chân chánh kính Phật trọng Pháp. Sau thời tụng kinh bái sám, xếp quyển kinh lại ngay ngắn, đem lên cất vào kệ, xem như thời kinh hoàn mãn. Điều này không sai, nhưng chưa đủ vì chỉ nhận được sự bình an tạm thời, có một ít thiện phước, tâm ý là lời phật dạy chưa cảm nhận được, chưa thấy rõ mục đích cứu cánh và chân lý đạo Phật.

Lắng tâm suy ngẫm hay làm thử con toán tính sổ trong cuộc đời tu hành chúng ta đi về chùa tụng kinh tất cả là bao nhiêu lần, bao nhiêu phẩm, bao nhiêu bộ kinh rồi hoặc đã thuộc nằm lòng rất nhiều bộ kinh Phật, lạy quá  nhiều lần hầu như không còn tính được nữa?!  Đa số người gặp cảnh bất như ý, đi tìm quên trong thú vui thế tục, người có đạo tâm tìm nguồn an ủi nơi cảnh chùa. Nhưng nội tâm vẫn còn bị tổn thương vì những hạt giống khổ đau phiền não chưa thấy được phương cách để loại trừ nó. Ai cũng có tánh giác, nhưng do chúng ta mãi hướng ngoại tìm cầu suốt cuộc đời, nên các vị Tổ thường nhắc nhở rằng: “Như người vác Phật tìm Phật, người cỡi trâu tìm trâu”. Mãi mãi quẩn quanh trong vòng luân hồi sanh tử.

Dù tụng nhiều kinh điển

Không thực hành buông lung

Như trẻ đếm bò người

Không hưởng quả đạo hạnh.

(Kinh Pháp Cú)



Nếu không tư duy suy ngẫm hiểu thấu đáo lời Phật dạy trong từng câu kinh tụng đọc hằng ngày, thì sự tụng kinh phút chốc thành vô dụng, thời tụng kinh trở thành ép xác trả nợ Phật, trả nợ thế gian không ích lợi gì cho mình cả, chư Tổ thường quở trách rằng: “Tu như vậy là đang tìm sừng thỏ hay lông rùa”. Cho đến khi bỏ lại xác thân phàm tục cũng khó mà thấy Phật. Như vậy ánh sáng từ câu kinh Phật ở chổ nào? Thật sự khó mà thấy được. Nhưng nếu như vậy cảm thấy đủ để an lạc vài phút giây ngắn ngủi thì “có thể” xem như hoàn mãn một thời tụng kinh.

Phật pháp tại thế gian,

Mê ngộ có chậm mau,

Bôn ba qua một kiếp,

Người lỗi ta không lỗi,

Bỏ đời đi tìm thánh,

Sừng thỏ kiếm sao ra.



ÁNH SÁNG TỪ CÂU KINH PHẬT

Đức Phật dạy: “Cổ xe trắng tinh đẹp nhất có thể ví như Niết Bàn. Các con tuấn mã ví như tin tấn và trí tuệ. Biết hổ thẹn và sợ tội lỗi ví như cái thắng. Nhẫn nại và từ bi giống như áo giáp. Thiền định và nguyện lực ví như bánh xe. Cuối cùng quả vị giải thoát là màu trắng tinh khiết của chiếc xe đẹp nhất, vết bẩn không còn tồn tại vì được người phu xe siêng năng, chuyên cần giữ gìn sạch sẽ”. (Kinh Tạp A Hàm)

Dù tụng kinh một lần, hai lần hay hằng trăm lần, nhưng duyên sự đến chùa vì cầu khẩn, vì tìm kiếm danh lợi mà không mong cầu tu học hay giác ngộ, thì chỉ phí đi thời gian của một đời người, sẽ không thấy được ý nghĩa thâm sâu trong lời kinh Phật. Nhưng nếu chuyển tâm phàm phu ích kỷ trở thành một hành giả trên đường đi tìm giác ngộ, quyết tâm mong thoát vòng sanh tử luân hồi, một người con Phật đúng nghĩa, buộc chúng ta phải biết dụng tâm và năng lực để thấy được ánh sáng trí tuệ từ câu kinh Phật. Đó là cả một kho báu của người cha trưởng giả để lại cho người con cùng tử (trong kinh Pháp Hoa) có quyền thừa hưởng, chìa khóa kho báu vô giá trong tay mà không bước thêm bước nữa để mở cánh cửa trí tuệ bát nhã, con đường duy nhất đưa đến giải thoát.

Đức Phật là bậc đạo sư, kinh là những lời Phật dạy, Ngài chỉ cho con đường vượt ra khỏi khu rừng vô minh tối tăm đầy cạm bẩy, hành giả là người phải tự bước đi bằng chính đôi chân của mình. Sai lầm nặng nề nhất là ngồi chờ kỳ nhân, mong cầu phép lạ. Ngài cũng là vị lương y đại tài có thể chữa được hằng ngàn tâm bịnh cho chúng sanh và để lại hằng vạn toa thuốc trị bịnh, chúng sanh cần phải uống và thực hành theo lời dặn, chứ không chỉ tụng đọc mà có thể khỏi bịnh được. Lợi ích của Kinh Phật đưa con người từ phàm phu mê mờ ích kỷ giật mình tỉnh giấc, ý thức được từ đâu sanh ra thế gian nầy, chết đi về đâu? Giải đáp mọi nghiệp duyên xảy ra trước mắt, từ đó người tu chánh tín tự chuyển mình, tự toàn thiện chính bản thân thì mới mong thấy con đường đạo.

Sống trong đời không lúc nào cũng có thãm đỏ trải dưới chân cho chúng ta bước đi dễ dàng. Mà con người phải tự lo cho bản thân có đôi giày an toàn vững chắc và trí tuệ chân chánh sáng suốt, để có thể chống nổi với nghịch cảnh và vượt qua chông gai. Cũng vậy, người Phật tử dù xuất gia hay tại gia đừng tự dễ dãi với chính mình, đừng để danh lợi lôi kéo vào con đường mù mịt tối tăm không lối thoát. Niềm tin chánh tín vào lời dạy chư Phật chư Tổ đã chứng đạo và luôn luôn chánh niệm dùng công phu “phản quan tự kỷ”  dám nhìn lại chính bản thân mình, là cơ hội để có thể tự khắc phục chuyển đổi phiền não của vọng tâm nguyên nhân gây ra tội lỗi, thấy được thực tế rất chân thật “ta là ai? tốt xấu như thế nào?” để biết mà tu.

Tuy tụng ngàn chương cú

Không hiểu nghĩa ích gì

Đâu bằng hiểu một câu

Nghe xong liền ngộ đạo.

(Kinh Pháp Cú)

Ánh sáng từ câu kinh từ những lời Phật dạy là trí tuệ, nếu không người tu dễ rơi vào tà tín và cũng không thể hướng dẫn người khác theo đúng chánh pháp. Một số ngôi Già-lam biến thành chỗ buôn Thần bán Thánh, xin xăm bói quẻ, cũng do người tu không có chánh kiến và chánh tín. Nơi ấy, Đức Phật bị người đời biến thành thần linh ra oai tác phúc, đạo Phật mất đi ý nghĩa của một đạo giác ngộ giải thoát. Cho nên, phước đức và trí tuệ được xem như hai cánh của một con chim, muốn bay xa, bay cao, chim phải có đầy đủ hai cánh mạnh mẽ, tràn đầy sinh lực.

Tóm lại, người tu thường hay có tâm phân biệt cao thấp, tốt xấu, thiện ác, thánh phàm…mà sanh phiền não, đạo phật không phải là thần quyền hay độc quyền vì vậy giác ngộ giải thoát cũng không dành riêng cho một vị nào cả, đạo đi vào đời bằng sự bình đẳng tuyệt đối và sự chân thật vốn có từ vô thủy của mọi người, nhờ ánh sáng từ những lời Kinh mà tự tu, tự cứu, tự lực, tự giác mà thành chánh quả. Nhưng cao cả đáng kính hơn hết của sự giải thoát hoàn toàn viên mãn là “Ngoài chẳng nhận là phàm thánh, trong không trụ tự mãn, không chấp phước đức hay công đức”. Khi đó trong đạo tràng lúc tụng Kinh chắc không còn phiền não vì người thỉnh chuông không đúng lúc? Người dẫn mõ quá nhanh? Người ngồi kế bên thì giọng đọc quá lớn!!...chỉ là những chuyện không đáng để bận lòng.

Một câu chuyện để suy nghẫm:

Ngày kia có một người Cha già vì duyên sự phải đi xa nhà một thời gian khá lâu. Trước khi ra đi Ông để lại cho hai người con 3 bức thư thật dài và đầy đủ, tất cả là những lời căn dặn dạy dỗ làm thế nào để sống an lành vui vẽ hạnh phúc với nhau khi không có Cha ở bên cạnh.

Người con thứ nhất, rất kính trọng Cha vội dán 3 bức thư lên tường, mỗi ngày đều tụng đọc đến thuộc nằm lòng, tốt hơn thế nữa anh còn siêng năng đọc một chữ, lạy một lạy, lập lại nhiều lần rất thành tâm.

Người con thứ hai, chậm rãi đọc lá thư và suy tư vận dụng sự thông minh sẳn có để tìm hiểu tâm ý của Cha muốn dạy những gì. Sau đó anh hiểu được ý nghĩa của 3 lá thư và một mực nghiêm túc thực hành tất cả lời Cha căn dặn dạy bảo. Bằng sự bình đẳng, lòng bao dung, dẹp tan cố chấp đầy phiền não của lòng tham sân si, chuyển tâm phục vụ lo lắng chăm sóc cho tất cả mọi người, buông bỏ bản ngã và sự ích kỷ cá nhân. Vì người không vì mình. Tạo được an lạc hạnh phúc trong đời sống như những gì Cha già mong mõi.

Qua câu chuyện trên, lòng kính hiếu với Cha Lành như Đức Phật, chúng ta tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền, còn phải học hiểu tâm ý lời dạy Chư Phật, Chư Tổ giảng dạy được ghi chép lại trong Kinh. Thực hành chánh niệm tỉnh giác, thanh tịnh tâm, trí tuệ sáng tỏ thấy được việc làm có ý nghĩa, hành trì tùy thuộc vào Tâm hay vào Tướng.

NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
TKN Thích Nữ Chân Liễu


                             
VÌ NGƯỜI HAY VÌ MÌNH?

-     Ngoại à! Ngoại mua mấy cái bánh cam nầy hôi hết rồi làm sao mà ăn đây, lần sau Ngoại đừng có mua nữa!.

-     Cháu à! Con thấy ăn được thì ăn, không thì bỏ đi. Vì Ngoại thấy đứa nhỏ bằng tuổi đi học giống như cháu, mà không được đi học phải bưng rỗ bánh cam đi bán, áo quần cũng không lành lặn. Nghĩ vậy thay gì Ngoại cho nó tiền, Ngoại mua hết rỗ bánh cam còn lại đó thôi, cháu hiểu thì đừng cằn nhằn Ngoại nữa được không?.

-     Cám ơn Ngoại, đã dạy cho con biết suy nghĩ vì người không vì mình quá nhiều!!!



CHẤP HAY KHÔNG CHẤP?

-     Má à! anh rể và chị Hai mê tín chấp rằng trong nhà mình đang có tang Ba xui lắm, không muốn Má đi dự đám cưới cháu ngoại, thôi thì Má cũng đừng thèm đi nha!

-     Hồi sáng nầy, anh rể và chị Hai của con có đến xin lỗi và xin Má tha thứ những lời nói vô tình xúc phạm đến Má. Năn nỉ Má thương con cháu đừng chấp. Má quyết định rồi, Má sẽ đi đưa cháu ngoại về nhà chồng. Nếu Má không đi, thì người chấp, người mê tín là Má đó.


PHƯỚC Ở ĐÂU?

-     Anh làm người tốt có ích gì, phải nghĩ cho bản thân, cho vợ con gia đình anh sung sướng, đầy đủ giàu có trước, khi nào có dư giả rồi hãy nghĩ đến làm tốt giúp người khác có được không?

-     Được chứ! Như vậy anh sẽ hưởng hết phước rồi, còn đâu dành cho em và con nữa!! khi muốn em thỏa mãn sung sướng và giàu có thì anh phải tạo nghiệp bất thiện, vì gia đình hại người, cuối cùng thì phước hay họa tới đây?!!..Anh làm chuyện tốt giúp người là đang tạo phước an lành, hạnh phúc cho các con và em đó.



CÓ NÊN MUA HAY KHÔNG MUA?

-     Thưa Ba, có một số người đến nhà con bán nhang đèn, có khi mặc y phục tu sĩ. Con lưỡng lự, không biết có nên mua không, họ là người tu thật hay giả?

-     Con có cần dùng nhang đèn hay không? Đó mới là điều cần thiết phải suy nghĩ mua hay không mua. Họ là người bán con là người mua, có sự trao đổi, việc gì không thiệt thòi mình cũng không hại người thì con làm đúng là vậy đó.




ÁC TRI THỨC
Quảng Tánh

Ai thích ngắm trăng cũng đều cảm nhận rằng, dù trăng tròn hay khuyết cũng đều đẹp. Nhưng ít ai liên tưởng được rằng, thiện tri thức như trăng đầu tháng, càng ngày càng sáng đẹp; ác tri thức như trăng cuối tháng, càng ngày càng mờ tối dần. Thì ra thú ngắm trăng, thưởng nguyệt nếu biết chiêm nghiệm sâu sắc, liên hệ với sự tu học sẽ thấy rõ thêm về lẽ đạo. Trong lộ trình nương tựa nhau để tu học, mỗi người cần nhanh chóng nhận ra ai là thiện tri thức để thân gần và ai là ác tri thức để tránh xa.
“Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc.
Bấy giờ Bà-la-môn Sanh Lậu đi đến chỗ Thế Tôn thăm hỏi, rồi ngồi một bên. Lúc này Bà-la-môn Sanh Lậu bạch Thế Tôn: Nên quán người Ác tri thức thế nào?
Thế Tôn dạy: Nên xem như xem mặt trăng.
Bà-la-môn hỏi: Nên quán Thiện tri thức thế nào?
Thế Tôn dạy: Nên xem như xem mặt trăng.
Bà-la-môn nói: Nay Sa-môn Cù-đàm nói lược cốt yếu mà chưa giảng rộng nghĩa. Cúi mong Cù-đàm nói rộng rãi khiến người chưa hiểu được hiểu.
- Bà-la-môn! Hãy lắng nghe, lắng nghe và khéo suy nghĩ! Ta sẽ vì ông giảng rộng nghĩa này.
- Xin vâng, Cù-đàm.
Bà-la-môn Sanh Lậu nhận lời dạy rồi, Thế Tôn bảo:
- Giống như, này Bà-la-môn, trăng cuối tháng, ngày đêm xoay vần, còn khuyết chưa có đầy. Đó là tổn giảm. Hoặc lại có lúc trăng không hiện, không có người thấy. Đây cũng như thế. Này Bà-la-môn! Như Ác tri thức trải qua ngày đêm, dần dần không có tín, không có giới, không có văn, không có thí, không có trí tuệ. Người đó vì không có tín, giới, văn, thí, tuệ nên với Ác tri thức đó, khi thân hoại mạng chung, bị vào trong địa ngục. Thế nên, Bà-la-môn, nay Ta nói là Ác tri thức giống như trăng cuối tháng.
Giống như, này Bà-la-môn, trăng đầu tháng, theo ngày đêm dần qua, ánh sáng tăng lên dần dần tròn đầy, rồi đến ngày rằm tròn đầy, tất cả chúng sanh đều thấy. Cũng vậy, Bà-la-môn, như Thiện tri thức, trải qua ngày đêm, tăng thêm tín, giới, văn, thí, trí tuệ. Người ấy do tăng thêm tín, giới, văn, thí, tuệ nên Thiện tri thức kia, khi thân hoại mạng chung, được sanh lên trời và cõi lành. Thế nên, Bà-la-môn, Ta nói Thiện tri thức này, chỗ thú hướng giống như mặt trăng tròn đầy.
Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ này: Nếu người có tham dục/Sân giận, si chẳng dứt/ Với lành, dần có giảm/ Giống như trăng sắp hết/ Nếu người không tham dục/ Sân giận, ai cũng dứt/ Với thiện, có tăng dần/ Giống như trăng tròn đầy.
Thế nên, Bà-la-môn, nên học như trăng đầu tháng.
Bấy giờ Bà-la-môn Sanh Lậu bạch Thế Tôn:
- Lành thay, Cù-đàm! Ví như người gù được thẳng, người mù được sáng, người mê thấy đường, ở nơi tối tăm có đèn sáng. Đây cũng như thế, Sa-môn Cù-đàm dùng vô số phương tiện thuyết pháp cho con. Nay con xin tự quy y Phật, Pháp và chúng Tăng. Từ nay xin cho con làm Ưu-bà-tắc, cho đến hết đời không sát sanh.
Bấy giờ Bà-la-môn Sanh Lậu nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập I, phẩm An ban [2], 

VNCPHVN ấn hành, 1997, tr.241)
Trong tu học, dĩ nhiên là cần bạn, “ăn cơm có canh, tu hành có bạn” nhưng phải là bạn tốt, thiện hữu tri thức. Vậy làm thế nào để biết ác tri thức mà tránh? Thế Tôn đã chỉ dạy rất rõ ràng, nếu thân cận với ai (dù đó là người xuất gia, hoặc là minh sư, thượng sư), theo thời gian mà “tín, giới, văn, thí, tuệ” của ta yếu dần, lu mờ dần như trăng cuối tháng thì chắc chắn đó là ác tri thức, cần phải tránh xa, nếu không muốn cùng họ đi vào ác đạo.
Ngược lại, nếu sau một thời gian thân cận, chúng ta cảm nhận được “tín, giới, văn, thí, tuệ” của ta mạnh dần lên, như trăng đầu tháng ngày càng sáng thêm, thì chắc chắn người ấy là thiện tri thức, dù họ chỉ là một người rất đỗi bình thường. Thì ra, trong nhà đạo, những chức tước lớn, phẩm vị cao hay thành đạt các pháp hữu vi như cơ nghiệp chùa to Phật lớn, áo gấm mão thêu, tiền hô hậu ủng… lại không phải là tiêu chuẩn của thiện tri thức. Thước đo giá trị thiện tri thức, theo lời Phật dạy, chính là “tín, giới, văn, thí, tuệ”.



TÂM PHẬT - TÂM MA
  
Cùng nhìn một cảnh trên đời
Hai tâm Ma - Phật vực trời khác nhau
Tâm Ma sân hận cơ cầu
Nhìn đâu cũng thấy vực sâu oán thù
Tâm Ma chỉ thấy âm u
Nhìn ngày nắng thấy mịt mù đêm mưa
Nhìn buổi sáng, thấy buổi trưa
Nhìn rồng thấy rắn, nhìn thưa thấy dầy
Nhìn hoa nở thắm trên cây
Thấy toàn lá úa cành gầy không hoa
Tâm Ma không thấy Di Đà
Thấy toàn hùm sói độc xà, sân si
 *
 Tâm Phật thì rất từ bi
Thấy ai cũng đẹp, cảnh gì cũng vui
Nhìn cây thấy nụ hoa cười
Nhìn đêm thấy ánh nắng tươi của ngày
Thấy đời tháng mượn năm vay
Bến mê thương kẻ đắm say ôm đời
Nhìn trong sân hận dập vùi
Tâm Phật thương cảm, ngậm ngùi xót xa
Xót vì cùng chốn ta bà
Sao người không mở lòng ra đãi người
Trăm năm dài chẳng mấy mươi
Hãy nên lưu lại cho đời hương hoa

Đấy tâm Phật. Đấy tâm Ma
Khác nhau một cảnh nhìn ra hai hình.
  
Ngô Minh Hằng


Kính thưa quý đồng hương Phật tử
Tôi là một Phật tử, pháp danh Trí Giác.

Một số bạn Công Giáo và Tin Lành hỏi tôi: “Đạo Phật các anh sao lại làm đại nhạc hội, ca hát, buôn bán, xổ số làm tiền um sùm ở trong chùa, trong khu vực chùa. Như vậy có đúng luật đạo Phật không”.

Tôi nghe hỏi mà cảm thấy xót xa, đau khổ, và xấu hổ cho đạo Phật. Vì tôi cũng đã thấy nhà thờ Công giáo, Tin Lành và nhà thờ Đạo Cao Đài, ngay cả Đạo Hồi, không bao giờ làm đại nhạc hội, buôn bán, xổ số để làm tiền nơi chốn thiêng liêng.
Chùa là nơi thanh tịnh già lam. Đến chùa để lắng lòng, nghe kinh, niệm Phật, học đạo, chuyển mê thành ngộ. Nghe được tiếng chuông U Minh lòng nhẹ nhàng thanh thoát.

Hình ảnh nầy diễn ra trong khuôn viên chùa Việt Nam Houston, Texas, 
chắc chắn không chuyển mê thành ngộ được !

Là Phật tử khi chúng ta tập tu 24 giờ Bát Quan Trai Giới, ai cũng nhớ và phải giữ giới thứ 6 là: Không được trang điểm, thoa dầu thơm. Múa hát và xem múa hát. Đó là hàng Phật tử tại gia, tập tu mà không được nghe ca hát. Huống gì, trong lúc chùa là nơi thanh tịnh, mà lại tổ chức đại nhạc hội, buôn bán, xổ số. Vị thầy xuất gia mà ngồi nghe ca sĩ sexy hát múa, ỏng ẹo nhạc đời. Thì còn gì phá đạo hơn nữa. Phật tử đã đau lòng khi thấy trong nước một số chùa thờ tượng Hồ Chí Minh cùng với Phật Thích Ca. Ngoài nước thì chùa chiền biến thành Siêu thị Phật. Quý thầy ở hải ngoại mạnh ai làm nấy. Một mình một chùa. Không cần giới luật. Hởi ôi! Thật quá đau lòng cho đạo Phật.
  
Son phấn thơm lừng, ăn mặc hở hang, đại diện Tịnh Xá Ngọc Hòa San Jose, chào đón Ông bà chủ nhân Phật ngọc trong buổi chiêm bái Phật ngọc tại San Jose, Calfornia.

Ở Portland có vị thầy đã chết với cái tên là Ông Thầy Đại Nhạc Hội, Phật tử nghe đồng hương nói như vậy thật là xấu hổ và đau xót cho đạo.
Cúi xin quý tăng ni suy nghĩ lại. Phật tử mong quý tăng ni nên nói với nhau giữ tròn giới luật để Phật giáo trường tồn và để Phật tử khỏi xấu hổ.
Đến lúc đồng hương Phật tử đã lên tiếng, không phải quý tăng ni muốn làm gì thì làm.
 
Khuôn viên tịnh xá nầy hàng năm tưng bừng tổ chức đại nhạc hội vào các dịp đại lễ như Phật Đản, Vu Lan v.v...đàn trống xập xình, chạy theo lợi dưỡng, 
làm biến tướng Bát Chánh đạo

Vừa qua đồng hương Phật tử rất hoan hỷ và tâm đắc, thật hạnh phúc khi đọc được bài thơ đăng trên Oregonthoibao mấy tuần trước đây của Thi sĩ Hàn Thiên Lương 

Thi sĩ Hàn Thiên Lương, là một Phật tử 13 năm tù CS, thuộc lớp người cao tuổi, vợ chồng anh rất thích đi chùa nhưng bây giờ không còn muốn đi tới chùa nữa, thì buồn biết là bao. Anh trở về tu ở “Trở Lại Vườn nhà”. Xin đồng hương Phật tử đọc lại nguyên văn bài thơ của anh để thông cảm tâm trạng của anh và cùng nhau xót xa, đau khổ vì đạo.

Trở Lại Vườn Nhà.

Tuổi thời gian đã cuối mùa
Nên tôi cố gắng đến chùa nghe kinh
Xa đời tránh cõi phù sinh
Quên đi những chuyện của mình của ai.

Nhân sinh lắm nỗi sầu đầy
Bon chen chìm nổi sông này biển kia
Vội quên tiếng hẹn lời thề
Dối gian quên mất ngõ về nghĩa nhân.

Chao ôi tôi rất ân cần
Vào chùa nghe tiếng chuông ngân tịnh hồn
Mong vơi đi những nỗi buồn
Cuối mùa được thấy con đường thênh thang.

Nhưng thôi tôi lại hoang mang
Thiền môn còn cảnh khoe khoang sang giàu.
Bày trò gây qũy xôn xao
Thêm trò đấu giá thấp cao ồn ào.

Em Xi khéo móc hầu bao
Tội cho Phật tử bụng đau cũng đành!
Cũng vì một chút hư danh
Cho nên có chuyện cạnh tranh ở chùa!

Thôi tôi trở lại vườn nhà
An nhiên dưới cội thông già tĩnh tâm
Giữ lời giữ ý âm thầm
Quanh đây lặng lẽ tháng năm yên bình!

Mới hay trong cõi nhân sinh
Niết Bàn, Bồ Tát trong tim mình mà thôi!

Hàn Thiên Lương

THƯ NGỎ VÀ MỤC LỤC PHTQ SỐ 21
http://www.phtq-canada.blogspot.ca/2013/01/thu-ngo-va-muc-luc-ac-san-phtq-so-21.html
THÂN BỆNH VÀ TÂM BỆNH
KHÔNG CÓ THẦN LINH TRONG ĐẠO PHẬT, ĐỪNG HIỂU SAI VỀ ĐỨC PHẬT
THẾ NÀO LÀ PHÁP NHẪN BA LA MẬT?
Ý NGHĨA CỦA CUỘC SỐNG
GIÁ TRỊ CỦA CON NGƯỜI