Tôi mong
tất cả Tăng Ni là người lãnh đạo Phật tử, quí vị đi và dẫn dắt Phật tử cùng đi
đúng theo con đường đức Phật đã đi.
Đừng đi
sai, đừng đi lệch, uổng một đời tu, không biết mai kia có gặp lại Phật pháp
không?
Làm sao
chúng ta đứng vững và luôn luôn không bị những luồng gió nhơ nhớp của thế gian
làm lem
luốc,
phải trong
sạch vững vàng trên con đường đạo. Đó là chỗ tha thiết mong mỏi của tôi.
HT
Thích Thanh Từ
lllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll
Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ
Phật-Học Tịnh-Quang Canada
Trong dịp năm hết tết đến, mọi người đều nhắc đến hoa mai. Trong văn học đại chúng, cũng như văn học Phật giáo, có nhiều bài văn bài thơ cảm tác về mùa xuân thường đề cập đến hoa mai.
Những vần thơ bất hủ, những áng văn trác tuyệt đi vào lòng người thường được nhắc tới, những câu thơ tuyệt bích trong thi ca Thiền học về không gian và thời gian, như bài thi kệ "Cáo tật thị chúng" của Mãn Giác Thiền sư:
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tùng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhứt chi mai
tạm dịch:
Xuân đi trăm hoa rơi
Xuân đến trăm hoa nở
Việc đời qua trước mắt
Già theo đến trên đầu
Chớ bảo xuân qua hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một nhành mai.
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tùng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhứt chi mai
tạm dịch:
Xuân đi trăm hoa rơi
Xuân đến trăm hoa nở
Việc đời qua trước mắt
Già theo đến trên đầu
Chớ bảo xuân qua hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một nhành mai.
*
Thiền sư Mãn Giác
(1052 - 1096) họ Nguyễn tên Trường, người xứ Lũng Chiền, làng An Cách,
con của Trung Thư Viên Ngoại Lang Hoài Tố, ham học, từ trẻ đã học hỏi
nhiều và thông hiểu về Phật giáo, Lão giáo và Nho giáo, được vua Lý Nhân
Tông khen ngợi, triệu vào cung và ban cho tên Hoài Tín. Sau đó xuất
gia, thuộc dòng thiền Vô Ngôn Thông, thế hệ thứ 8. Vua Lý Nhân Tông và
Hoàng Hậu rất mến trọng sư, cho xây một cảnh chùa cạnh cung Cảnh Hưng để
tiện việc tham hỏi về Phật học. Thiền sư mất năm 45 tuổi. Vua ban hiệu
là Mãn Giác. Rất tiếc các sáng tác của sư không còn giữ lại, chỉ còn một
bài "Cáo tật thị chúng" (Báo bệnh dạy chúng) rất nổi tiếng trong văn đàn Việt Nam.
* * *
Trước
hết, về phương diện văn chương, đây là một trong những bài thơ tuyệt
vời, thường được trong giới nhà thiền hay những văn nhân thi sĩ nhắc lại
cái hay, cái đẹp của ý tứ thơ vào những độ xuân về.
Về phương diện ý nghĩa:
Bài
kệ "Cáo tật thị chúng" của Mãn Giác Thiền sư, làm ra trước khi viên
tịch, có ý nhắc các đệ tử rằng: xuân đến thì trăm hoa nở, xuân đi trăm
hoa rụng, đó là qui luật tuần hoàn, như thiên nhiên có đến có đi, hoa có
nở có tàn, con người có sinh có diệt. Điều này có thể nghiệm thấy qua
mái tóc bạc trên đầu, thân thể bệnh tật, chuyện gì rồi cũng qua!
Nhưng,
đừng tưởng xuân qua hoa rụng hết, đêm qua, sân trước, vẫn còn nhánh
mai. Nghĩa là đừng tưởng con người ra đi là cuộc đời kết thúc. Thực ra,
cuộc đời vẫn tiếp diễn theo qui luật thiên nhiên, mọi người vẫn tiếp tục
cuộc sống, cây cỏ vẫn tốt tươi trở lại sau mùa đông băng giá: xuân qua,
hạ đến, thu sang, đông tàn!
Lời thơ uyên áo, thiền vị, ý nghĩa tuyệt vời! Nhứt chi mai
là niềm hi vọng, là cái tốt trên đời không thể mất, là sự tồn tại của
các giá trị siêu việt. Người tục hiểu khác người tu, nhưng cả hai đều
thấy có cái trường tồn bất diệt chi phối cõi đời này. Đó thiệt là điều
đáng quí! Bài thơ quả là một thông điệp rất lạc quan!
Ngoài
giá trị thi ca tuyệt tác, bài thơ sáu dòng trên nói lên sở ngộ của một
bậc thiền sư. Giữa dòng đời mọi vật đều vô thường, biến đổi: đến đi, nở
tàn, ngày đêm, trước sau, vẫn có mặt cái thực tại như thật, cái thực tại
luôn hiện hữu cùng với con người, mà con người thường không thấy, hay
bị che khuất bởi các tướng sinh diệt.
Thiền sư thì thấy rất rõ: hình ảnh nhánh mai vàng rạng rỡ trước sân của thời điểm xuân tàn.
Không
phải chỉ có nhánh mai ở bên ngoài cảnh vật, còn hiện diện một nhánh mai
vàng rực rỡ trong tâm thức con người, dù cho tâm trạng phiền não của
buổi xuân tàn.
Bất
cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, không gian và thời gian nào, con người cũng
có điều kiện mỉm cười ngắm nhìn nhánh mai ấy, mặc cho sóng gió của lịch
sử, hay bát phong của cuộc đời, cũng không đủ để dập tắt nụ cười ấy, nụ
cười của một bậc thiền sư. Cái
sở ngộ thực tại, cái thấy thực tại ấy, khiến hành giả sống rất lạc
quan, sống với niềm tin không sinh không diệt trong cuộc sống.
Há
đây không phải là một sức mạnh tâm lý phi thường, đánh thức tâm thức
con người, trước bao nhiêu cảnh xuân tàn đó hay sao? Đây mới thực sự là
điểm sống của bài thơ trên, và là điểm sống của thi ca, văn chương thiền
học Việt Nam.
Về phương diện tu học:
Mùa
xuân có đến ắt có đi theo qui luật tuần hoàn của thiên nhiên, không
vĩnh viễn tồn tại, cũng không vĩnh viễn mất đi, có đi ắt có đến theo
vòng sanh tử luân hồi.
Con
người cũng không tránh khỏi các qui luật này. Trong vòng sanh tử luân
hồi, con người đã bao lần trải qua 4 giai đoạn: sanh, trụ, dị, diệt! Muốn thoát ly được sanh tử luân hồi, người tu theo Phật phải làm sao giác ngộ được bản tâm thanh tịnh bất sanh bất diệt.
Trong cuộc sống, khi tiếp xúc với cảnh trần, tâm con người sanh ra không biết bao nhiêu phiền não khổ đau.
Muốn
dẹp bỏ các tâm trạng bất an này, con người cần áp dụng tứ vô lượng tâm:
từ, bi, hỷ, xả. Khi các vọng tâm phiền não hoàn toàn dứt sạch, con
người đạt được cảnh giới vô tâm.
Vô
tâm tức là không còn bị các vọng tâm phiền não gây khổ đau nữa, nói
cách khác: tức là không còn tâm tham lam, sân hận, si mê, ganh tị, đố
kỵ, làm phách, mắc mỏ, ỷ già, ỷ tài, ỷ giàu sang, đang thế lực, lăng
xăng lộn xộn.
Khi
tất cả những thứ đó rơi rụng hết trơn, ví như xuân tàn hoa lạc tận, thì
lúc đó bản tâm thanh tịnh, hay chân tâm, hiển lộ. Chân tâm bình đẳng là
con người chân thật. Khi đó, con người chân thật sống trong an nhiên tự tại của niết bàn.
Nếu như phiền não (tham, sân, si) chưa dứt sạch (hoa tàn chưa rụng hết trơn), làm sao thấy được chân tâm, làm sao thấy được nhứt chi mai? Ví
như mặt trời luôn sáng tỏ, nhưng vì bị mây đen (phiền não) che khuất,
ánh sáng trí tuệ không tỏ đó thôi! Nếu người nào hiểu được rõ ràng thì
phước biết bao! Người nào bớt được phiền não khổ đau, thì người xung
quanh cũng đỡ khổ biết bao!
Cho nên kinh sách có câu: vô tâm tức niết bàn, chính là nghĩa đó vậy!
Cũng
như Thiền sư Mãn Giác đã nói: hoa rụng hết, tức là các phiền não rụng
hết. Khi ấy, tâm thanh tịnh hiện tiền, cũng như một nhánh mai hiện diện
nơi sân trước hồi đêm qua. Sân trước, sân sau, đêm qua, đêm nay, ngụ ý
chỉ sự đối đãi, sự tương đối, trên đời này: có đúng có sai, có phải có
quấy, có sáng có tối, có trước có sau, có chánh có tà, có đen có trắng,
có ngày có đêm!
Dù
sống trong cảnh đời đối đãi nhị biên như vậy, nhưng nếu con người biết
pháp môn tu tập, con người vẫn có thể giác ngộ được cái chân thật bất
nhị, không còn thấy có hai, dù không gian, thời gian nào, dù người hay vật, sắc hay không, tượng trưng là: nhứt chi mai!
* *
Thiền
sư Mãn Giác diễn tả mùa xuân theo thời gian cứ tuần hoàn qua lại, xuân
đi rồi xuân lại đến. Sự sự vật vật cũng theo thời gian sanh diệt, đổi
thay thay đổi, gọi là cuộc đời vô thường!
Mỗi
khi xuân đến thì thấy hoa nở, xuân đi thì thấy hoa rụng. Hoa rụng hoa
nở theo thời gian tức là sanh diệt, diệt sanh liên tục không ngừng. Con
người cũng cùng chung số phận đó, vì tóc trên mái đầu đã bạc trắng cả
rồi!
Như
vậy, thời gian chi phối cả vạn vật lẫn con người, không có cái gì tồn
tại mãi với thời gian. Tất cả chúng ta rồi đây cũng sẽ tuần tự ra đi, kẻ
trước người sau, không ai tránh khỏi!
Người
đời thường bi quan trước sự vô thường biến đổi của cuộc đời như vậy,
nhưng qua hai câu chót, Thiền sư Mãn Giác kết thúc thật tuyệt vời:
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhứt chi mai.
Thiền sư Mãn Giác nói: chớ bảo xuân qua là hoa rụng hết, vì đêm qua trước sân vẫn còn nhánh mai.
Thông
thường, thời gian trôi qua, con người lẫn vạn vật, tất cả đều tàn phai
hoại diệt. Nhưng trong khi cái vật chất hữu tướng bị hoại diệt đó, còn
có một cái bất diệt, thời gian không hủy hoại được. Cũng như ngay trong
thân năm uẩn sanh diệt vô thường của chúng ta, có cái thường hằng bất
diệt, biểu trưng bằng một nhánh mai, tồn tại dù xuân đã qua.
Tóm lại, cái tâm suy nghĩ phân biệt, lăng xăng lộn xộn, là tâm duyên theo bóng dáng của trần đời bên ngoài.
Tâm
đó sanh diệt tùy duyên, tùy cảnh mà có, không thật. Còn bản tâm hằng
tri hằng giác, không đợi nghĩ suy mới có, là tâm chân thật, là bản tâm
thanh tịnh, không sanh không diệt.
Bản tâm đó giúp mình, việc đến biết đến, việc đi biết đi. Bản tâm đó không hình không tướng, thênh thang trùm khắp.
Chúng
ta thường ngày sống với cái tâm phân biệt hạn hẹp, tốt xấu hơn thua nên
gọi là mê, mê lầm. Cái tâm phân biệt thì tùy duyên, duyên tốt thì hành
xử tốt, duyên xấu thì hành xử xấu, cho nên tâm trạng sanh diệt, thay đổi
luôn luôn.
Nếu người nào sống với cái tâm không sanh diệt trùm khắp thì gọi là giác, giác ngộ! Cái tâm chân thật không phân biệt, không sanh diệt, chính là cái “biết” đó thôi, không biến hoại và thường hằng.
Qua
bài kệ trên đây, Thiền sư Mãn Giác nhắc cho đồ đệ cũng như chúng ta
biết thân này có sanh ắt phải tử, nhưng trong cái thân sanh tử đó có cái
tâm chân thật bất diệt.
Đây chính là cốt tủy của đạo Phật vậy.
Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ
THẮNG HAY THUA
- Hôm qua tôi tranh cãi với anh ta dữ dội.
Bổng dưng anh ta nín
thinh, chịu thua tôi !?
- Chưa biết anh ta thua bạn thiệt chăng,
nhưng anh ta tự chế, nhịn được, nín được,
tức là: anh ta tự thắng chính bản thân anh ta đó!
NHẤT CHI MAI
THIỀN SƯ MÃN GIÁC
THIỀN SƯ MÃN GIÁC
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tùng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhứt chi mai
****
Xuân đi trăm hoa rơi
Xuân đến trăm hoa nở
Việc đời qua trước mắt
Già theo đến trên đầu
Chớ bảo xuân qua hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một nhành mai.
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tùng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhứt chi mai
****
Xuân đi trăm hoa rơi
Xuân đến trăm hoa nở
Việc đời qua trước mắt
Già theo đến trên đầu
Chớ bảo xuân qua hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một nhành mai.
Sống
đời vui đạo
(Sống trong tương đối - Vui với tuyệt đối)
(Sống trong tương đối - Vui với tuyệt đối)
Thương ghét, phải quấy, đẹp xấu, đúng sai, hơn
thua, chính là vọng tâm, vọng tưởng, vọng thức, vọng niệm. Ðó chính thực là con
trâu, mà người tu theo Phật phải chăn phải dắt, phải kềm phải chế, phải điều
phải khiển, phải thuần phải phục, thúc liễm luôn luôn. Chăn trâu thành công thì
Tánh Giác hiển lộ. Ðiều quan trọng là: "Con người hãy chăn dắt con trâu,
chớ để con trâu dẫn dắt con người! Nếu để con trâu dẫn dắt, không biết con
người sẽ đi về đâu?". Cho nên mới có pháp tu gọi là "Pháp Môn Chăn
Trâu", chính là nghĩa đó vậy.
Chăn trâu nghĩa là: áp dụng Chánh Pháp, vào trong
cuộc sống, của mình hằng ngày, dẹp trừ vọng tâm, vọng tưởng vọng thức, vọng
niệm liên miên, chuyển hóa ba nghiệp, thân khẩu ý mình, bất lương bất thiện,
thành ra ba nghiệp, hoàn toàn thanh tịnh. Chăn trâu nghĩa là: không theo sức
mạnh, sức kéo sức lôi, của tâm tham lam, sân hận si mê.
Ðây mới chính là ý nghĩa thiết yếu của việc tu
tâm dưỡng tánh theo đạo Phật: Trong tâm khởi niệm, nếu giác kịp thời, liền biết
không theo, đó là Chơn Tâm. Trong tâm khởi niệm, nếu còn mê muội, không giác
kịp thời, liền theo niệm đó, trở thành vọng tâm. Cũng ví như là: Khi có gió
thổi, mặt biển nổi sóng, gọi là biển động. Mặc dù có gió thổi, mặt biển vẫn
bình yên, đó là biển thái bình, ví như bản tâm thanh tịnh. Tu theo đạo Phật,
không phải chỉ có: cúng kiến lễ lạy, van xin cầu nguyện, không còn gì khác!
Nếu con người biết sẵn sàng tha thứ cho người
khác, cũng như đã từng nhiều lần trong đời, tha thứ cho chính bản thân mình,
thì cảnh giới thiên đàng niết bàn cực lạc chính là đây, ngay trên thế gian này!
Sinh sự thì sự sinh. Nhân nào thì quả nấy. Gieo
gió thì gặt bão. Có lửa thì có khói. Cầu nguyện khấn vái chỉ đem lại sự bình an
tâm hồn tạm thời mà thôi. Bình an thực sự chỉ có cho người thiện tâm. Thiên
đàng hay địa ngục, tuy là hai tâm trạng khác nhau, nhưng tất cả thực sự chỉ là
các trạng thái ở trong thâm tâm của tất cả chúng ta. Cũng ví như biển động hay
biển lặng, tuy khác nhau, nhưng đều là hai trạng thái của biển mà thôi vậy.
Cảnh giới tịch diệt an lạc đó không dành riêng
cho bất cứ ai, không thuộc bất cứ tôn giáo nào, không thuộc bất cứ sắc dân nào,
không thuộc bất cứ thời đại nào. Bất cứ ai dẹp được một phần các tâm niệm sanh
diệt, thì người đó sống được một phần trong cảnh giới an lạc tịch diệt.
TỲ KHƯU THÍCH CHÂNTUỆ
THẾ NÀO LÀ PHÁP NHẪN BA LA MẬT?
Ý NGHĨA CỦA CUỘC SỐNG
GIÁ TRỊ CỦA CON NGƯỜI
THƯ NGỎ VÀ MỤC LỤC PHTQ SỐ 21
DỌN KHO ĂN TẾT
AN LẠC VÀ HẠNH PHÚC