FRIDAY 2017.3.24
VP.PHTQ.CANADA trân trọng cảm niệm chư vị thân hữu khắp nơi.
Mục đích cứu cánh của đạo Phật là: Giác Ngộ và Giải Thoát.
Tuy nhiên, để phổ biến giáo lý đạo Phật trong quảng đại bá tánh thế gian,
dưới hình thức của một tôn giáo, đạo Phật chia ra nhiều tông phái.
Thờ cúng và cầu nguyện là hình thức chung của nhiều tôn giáo.
Người theo đạo Phật tùy duyên lựa chọn tông phái thích hợp để tu tập.
Thời gian và công phu tu tập sẽ giúp cho bá tánh hiểu rằng:
các tông phái chỉ là phương tiện - không nên cố chấp bảo thủ, nếu muốn giác ngộ được chân lý (sự thật hiển nhiên).
Kính mời chư vị thân hữu cùng tham khảo:
GIÁC NGỘ VÀ GIẢI THOÁT
Đăng tải tại - Các tài liệu sưu tầm và các bài viết với quan điểm cá nhân, Thiền tuệ quán (vipassana) |
Tag (Thẻ) a la hán, atman, awakening, bà la môn, bốn quả sa môn, bodhi, brahman, enlighten ment,
giác ngộ, giải thoát, guru, minh sư, quả vô sanh, sanmat, sư tử hống, tiểu ngã, đại ngã, đạo lộ |
|
WEDNESDAY 2017.3.8
VP.PHTQ.CANADA trân trọng cảm niệm chư vị thân hữu khắp nơi phát biểu cảm nghĩ
về nội dung thư của Cụ Minh Hùng Trương Quang Đại (USA).
Nguyên văn đăng sau thư này dưới đây.
Kính mời tham khảo.
VP.PHTQ.CANADA
Thứ Ba ngày 07 tháng 3 năm 2017
VP.PHTQ.CANADA trân trọng cảm niệm chư vị thân hữu khắp nơi phát biểu cảm nghĩ
về nội dung thư của Cụ Minh Hùng Trương Quang Đại (USA).
Nguyên văn đăng sau thư này dưới đây.
Kính mời tham khảo.
VP.PHTQ.CANADA
Thứ Ba ngày 07 tháng 3 năm 2017
Kính thưa quí vị,
VP. PHAT-HOC TINH-QUANG CANADA có nhận được thư của một vị Phật tử.
Cụ này vừa mừng đại thọ 90 tuổi tháng trước.
VP. PHTQ. CANADA kính thỉnh chư vị thức giả góp ý kiến trả lời nội dung bức thư này.
Kính đa tạ và kính chúc chư vị vạn sự cát tường.
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
Kính thư,
VP. PHAT-HOC TINH-QUANG CANADA
llllllllllllllllllllllllllllll llllllllllllllllllllllllllllll llllllllllllllllllllllll
From Hien Ngo
Fri, Mar 24, 2017 at 6:27 AM | |
Reply-To: hien ngo
To: Ty-Khuu Thich-Chan-Tue
Ở Việt Nam hiện nay Đạo Phật Đại Thừa chỉ có ba tông phái chính:Tịnh Độ Tông, Thiền Tông và Mật Tông.
Giác ngộ của Tịnh Độ Tông
Trong
khi “phát triển”, các tông phái của Đạo Phật phát triển đã thay đổi cứu
cánh giác ngộ của Đạo Phật nguyên thủy thành một cứu cánh tạm thời, như
khả năng tái sinh nơi cõi cực lạc của A Di Đà Phật. Lý do của sự thay
đổi cứu cánh thì ai cũng hiểu. Đó là vì Tịnh Độ Tông muốn thích hợp với
trình độ tâm thức của số đông. Để phổ biến rộng tông phái, một số các tu
sĩ đã rao giảng cho các tín đồ rằng : Niệm Phật thành Phật! Hoặc truyền
đi các câu chuyện về một số người chuyện người tu Niệm Phật chết để lại
Xá Lợi v.v…
Thực
sự không thể đặt câu hỏi “Giác Ngộ là gì?” đối với Tịnh Độ tông, tức
pháp môn niệm Phật. Vì ngay từ kinh điển chính thức và nền tảng của
mình, Tịnh Độ không có chủ trương thực hiện giác ngộ để giải thoát.
Giác ngộ theo quan điểm của Thiền Tông Trung Quốc
Khi
Thiền tông Trung Quốc xuất hiện, người ta nói đến và tin rằng có một kỹ
thuật hay nghệ thuật gì đó, có thể làm cho phàm phu tức khắc thành
thánh nhân.
Từ
quan điểm xem Tánh Không (Như Lai Tạng, Chân Như, Phật tính v.v…) là
bản thể vốn có của con người. Một số các đạo sư tin rằng chỉ một lần
trực nhận Tánh Không là con người có thể Đốn Ngộ thành Phật, tức chứng
ngộ một cách đột ngột phi thường! Suzuki, một thiền sư học giả, đã viết
trong cuốn sách Thiền Luận của ông như sau:
–
“…vậy nội dung của Giác Ngộ là gì? Ta có thể mô tả nó bằng cách nào dễ
hiểu để trí thức hiếu biện của ta có thể nắm lấy và đặt thành đề tài suy
tư không? Bốn Diệu Đế không phải là nội dung của Giác Ngộ, cả đến Mười
Hai Nhân Duyên, cả đến Tám Chánh Đạo. Chân lý nhoáng lên trong tâm Phật
không phải như một tư tưởng có thể luận giải bằng lý trí.”
–
“Thế nghĩa là gì? Chắc vậy, chứng La Hán không phải là vấn đề chuyên
học, mà đó là một cái gì hốt nhiên xảy đến, trong chớp mắt, sau bao năm
tinh chuyên tu tập. Thời gian chuẩn bị có thể kéo dài nhiều năm dài
dẳng, nhưng đến một lúc nào đó thì chớp nhoáng cơn khủng hoảng vỡ bùng và người ta thành La Hán, hoặc thành Bồ Tát, hoặc thành Phật luôn nữa. Có
thể lắm, nội dung của Giác Ngộ giản dị vô cùng ở bổn thể, nhưng sức
chấn động thì thực là kinh khủng. Tôi muốn nói, về trí giải, nó phải
vượt qua tất cả thế kẹt thuộc phạm vi nhận thức và ngôn ngữ văn tự; về
tâm giải, nó phải là sự tái thiết toàn thể phẩm cách con người.”
– “…Rồi
nay bỗng dưng cái Ngộ chụp lấy họ, một cách hoàn toàn bí mật, không ngờ
trước, ấy thế là tất cả được giải quyết một lần; họ thành La Hán, hoặc
Phật nữa.” [10].
Quan
niệm về giác ngộ cũng như con đường tu tập dẫn đến giác ngộ của thiền
tông Trung Quốc là hoàn toàn khác với giáo pháp của Đức Phật. Khác cả về
hình thức tu tập cũng như về nội dung giác ngộ. Sự thực là Thiền Tông
Trung Quốc khi phát triển cũng không còn sự thống nhất, cũng bị phân
phái thành các tông phái tu tập khác nhau. Sau đây là một trình bày vắn
tắt về một quan điểm tu tập nổi bật của Thiền Tông Trung Quốc:
–
Một số trường phái của Thiền Tông Trung quốc còn giữ sự tu tập về thiền
định. Các trường phái này thực hành thiền bằng “Lục Diệu Pháp Môn” của
đại sư Trí Khải hoặc tu tập dựa trên các “Bức Tranh Trâu” [11].
Phương pháp thực hành và tiêu chuẩn đắc thiền khi tu tập Lục Diệu Pháp
Môn hay các Bức Tranh Trâu này hoàn toàn không có trong kinh điển nguyên
thủy của Đạo Phật. Sự giác ngộ theo các pháp tu vừa đề cập, cũng không
có đạo lộ hướng về bốn quả thánh như trong giáo pháp của Đức Phật.
–
Có trường phái Thiền Tông Trung Quốc nhấn mạnh vào cái bất lực của ngôn
ngữ nói và chữ viết vì nó chỉ là cái vỏ hình thức “chật chội” không
chuyên chở được toàn vẹn cái nội dung thực mà con người muốn chuyển tải
cho nhau. Nhất là trong sự chuyển tải, trao đổi các khái niệm triết học
hay đạo học. Đây là lý do Thiền tông TQ đã đề xuất ra khẩu hiệu “bất lập
văn tự”. Các trường phái này đả kích thiền định và sáng tạo một số
phương pháp tu tập gọi là Công án (koan) và Thoại đầu. Với lý luận như
sau:
Con
người nhận biết thế giới bên ngoài bằng tư duy bên trong đầu óc. Đó là
dòng chảy của những suy nghĩ miên man bất tận trong óc. Các suy nghĩ này
cũng thể hiện bằng ngôn ngữ y hệt như bên ngoài. Nói cho dễ hiểu đó là
những lời nói thầm (kiểu độc thoại) không dứt trong trí óc con người.
(Inner speech or inner verbalization). Khi đối tượng xuất hiện ở ngoại
cảnh, bên trong trí óc sẽ có liền một nhận thức, kèm theo các phán đoán
vận hành bởi ngôn ngữ bên trong. Dù là lời nói bên ngoài hay suy nghĩ
bên trong con người không thể nào không dùng đến các khái niệm của ngôn
ngữ, cái vốn không thể chuyển tải chân lý trọn vẹn. Ngôn ngữ bên ngoài
miệng hay lời nói thầm (dùng để suy nghĩ hay nhận thức) bên trong trí
óc, đều là cái làm cản trở, làm sai lệch cái biết “như thực”. Thiền tông
Trung Quốc gọi cái BIẾT qua tư duy ngôn ngữ này là cái Bị Sanh (be
born). Khi tư duy ngôn ngữ bên trong trí óc bị chấm dứt thì cái BIẾT NHƯ
THỰC xuất hiện. Cái biết “như thực” từ cõi “vô ngôn” này được tin là
cái biết của Tánh giác. Thiền tông Trung quốc cũng tin rằng Tánh giác
này chính là cái Vô Sanh trong kinh điển Đạo Phật!
Khi
nhận ra cái chỗ Vô sanh tức Tánh Giác, Thiền Tông gọi đó là Kiến Tánh.
Vào giai đoạn đầu của lịch sử Thiền Tông, với sự hưng phấn quá mức,
thiền tông Trung Quốc chẳng ngần ngại tuyên bố rằng kiến tánh (nhìn thấy
cái được cho là “vô sanh”) là đắc quả vô sanh, là thành Phật. Tuy
nhiên, ngay trong thời đó một số tu sĩ đã thấy sự tin tưởng vào việc
thành Phật ngay trong tích tắc là một niềm tin “không cơ sở” và “quá mức
ngây thơ”. Rồi qua thời gian dài chịu đựng sự công kích vào hiện tượng
thành Phật “tức khắc” này, thiền tông TQ buộc phải dịu giọng mà chấp
nhận khẩu hiệu “Đốn Ngộ, Tiệm Tu”. Nghĩa là sau khi giác ngộ kiểu “ngay
tức khắc”, các thiền sư phải tu tập lâu dài hơn nữa mới có thể thực sự
“đại giác ngộ”, cái mà họ cho rằng tương đương với A La Hán hoặc là hơn
cả mức độ A La Hán. Sau khi Đốn ngộ rồi sẽ Tiệm tu như thế nào, bằng
phương pháp nào, để được giác ngộ hoàn toàn? vẫn còn là điều mà Thiền
Tông Trung Quốc vẫn chưa trình bày rõ!
Các
thiền sư Trung Quốc đã chế tác ra nhiều kĩ thuật thiền, trong đó có một
số kĩ thuật rất ấn tượng như la, hét đấm, đá v.v..(Ví dụ: Thiền Sư Đức
Sơn [12]).
Có lẽ các thiền sư Trung Quốc nghĩ rằng khi la hét đánh đá thiền sinh
có thể gây ức chế dòng ngôn ngữ bên trong của thiền sinh? Nhưng thực ra
kinh điển nguyên thủy cho thấy trước đó hàng ngàn năm Đạo Phật nguyên
thủy đã giải quyết vần đề này một cách đơn giản hơn. Đó là phương pháp
Chánh Niệm trên thân, thọ, tâm, pháp (Tứ niệm xứ) . Chỉ vậy thôi.
Có
một thời, người ta tin rằng chỉ với các thuật như Tham công Án, Khán
thoại đầu, đấm, đá, đánh và hét v.v… thậm chí chỉ cần nhìn chiếc lá rơi,
nghe âm thanh một mảnh sành vỡ v.v…các thiền sư Trung Quốc cũng đã thực
hiện được giác ngộ ngay trong tức khắc! Nhiều người tin rằng đó là “một
cú nhảy thẳng vào trong sự giác ngộ”! Nhưng ít người tìm hiểu sâu về
nột dung cái gọi là “giác ngộ” đó!
Giác ngộ theo quan điểm của Mật tông Phật giáo
Mật
tông Phật giáo (tức Kim cương thừa) tại Ấn Độ xuất hiện rất muộn,
khoảng một ngàn năm sau khi Đức Phật nhập diệt. Không bị suy thoái như
Thiền Tông, hiện nay Mật Tông phát triển rất mạnh với vô số các chi phái
khác nhau. Đây là truyền thống tu tập bí mật có rất nhiều chi phái với
các kĩ thuật khác nhau. Các kĩ thuật đó, được cho là cùng có khả năng
dẫn tới trạng thái gọi là “giác ngộ” [13].
Phái
thiền Dzogchen của Mật tông Tây Tạng có quan niệm về giác ngộ rất giống
với Thiền tông Trung Quốc. Có phái Mật Tông Phật giáo sử dụng Yoga (một
trường phái của Ấn giáo) với các kĩ thuật tu tập trên các luân xa, tu
tập trên luồng hỏa hầu kundalini. Rõ ràng các trường phái này đã đi lại
con đường tu tập và giác ngộ theo mô hình của Ấn Giáo. Nghĩa là, đồng
hóa trạng thái gọi là “giác ngộ” với sự khám phá được bản thể năng lượng
của bản thân và thế giới.
Khi
Mật Tông Phật giáo sử dụng năng lực tính dục để thực hiện cái gọi là
“giác ngộ” (cho đây là một phương tiện thiện xảo) thì nó hoàn toàn không
còn mối liên hệ nào với Đạo Phật nữa. Đây không phải chỉ nói đến mối
liên hệ về phương pháp tu tập mà nói đến mối liên hệ về bản chất của
Giác ngộ. Tính Dục thì có thể giải thích là không tốt không xấu. Nhưng
tu tập chỉ để nhận ra bản chất năng lựợng của Tính Dục mà không có con
đường tiêu diệt tính dục thì rõ ràng không giống với triết lý của Đạo
Phật. Vì đối với Đạo Phật, tính dục (ái dục) là một lậu hoặc (ô nhiễm)
cần phải thanh tịnh.
Mật
tôngPhật giáo còn có những kĩ thuật nhằm đồng hóa thân tâm của người đệ
tử chưa giác ngộ với thân tâm một vị thày đã giác ngộ hoặc với biểu
tượng của một vị hóa thần (yidam). Do vậy, có thể thấy sự “giác ngộ” của
Mật tông cũng dựa trên sự tu tập bằng “tha lực”, tức những năng lực đến
từ bên ngoài.
Con
đường tu tập của Kim Cương Thừa chủ yếu dựa vào tha lực và các phương
tiện được cho “thiện xảo”. Ấn, chú, linh phù, mandala, hóa thần (yidam),
không hành nữ (dakini) v.v… được triết lý của Kim cương thừa gọi là các
“phương tiện thiện xảo” (S. upāya kauśalya; P. upāya kosalla). Các
phương tiện thiện xảo này rất khác biệt với phương tiện thiện xảo trong
giáo pháp của Đạo Phật vốn chỉ là sự thay đổi cách thuyết giảng cho phù
hợp với từng đối tượng! [13].
Kim
Cương Thừa (tức mật tông phật giáo) luôn nhận mình là Đạo Phật, được
truyền dạy từ giáo pháp bí mật của Đức Phật Gautama. Nhưng đối với kinh
điển nguyên thủy thì ta không thể tìm thấy một dấu vết nào chứng minh
cho điều này. Trong kinh Đại Bát Niết Bàn, trước khi nhập Niết Bàn Đức
Phật còn nói rằng giáo pháp của ngài là bàn tay mở, không dấu diếm điều
gì! [14] Không có gì gọi là bí truyền cho riêng một cá nhân nào!
Ba giải thoát mà Kim Cương Thừa chủ trương là:
– Không giải thoát môn (zh. 空解脫門)
– Kim cương giải thoát môn (zh. 金剛解脫門) và
– Huệ giải thoát môn (zh. 慧解脫門).
Khác
với Tam giải thoát môn của Đạo Phật và cũng không nói đến Bất Động Tâm
Giải thoát như một tâm giải thoát biểu lộ sự giải thoát hoàn toàn. Tất
cả các phương thức tu tập của Kim Cương Thừa thì không đi qua đạo lộ của
tâm giác ngộ (còn gọi là bốn quả Thánh hay bốn qua sa môn)! Trong kinh
Sư Tử Hống, Đức Phật đã tự phân biệt giáo pháp của ngài với các pháp của
Bà La Môn bằng phát biểu rằng, giáo pháp nào không đưa đến bốn quả sa
môn, thì giáo pháp đó không phải là giáo pháp của ngài.
Mật
Tông Phật giáo có rất đông người theo đuổi, vì thường được tin là con
đường đi tắt có thể làm rút ngắn thời gian tu tập. Chỉ riêng cái yếu tố
“mật” đầy huyền thoại đã kích thích tâm lý người tu rất nhiều, chứ chưa
nói đến cái yếu tố “con đường đi tắt” để tránh thời gian tu tập kéo dài!
Một điều phải nhắc lại ở đây rằng, mọi phương pháp tu tập đều có những
giá trị riêng của nó. Mọi loại giác ngộ đều có nội dung và mục đích của
riêng nó. Mọi người tu tập có quyền lựa chọn con đường riêng phù hợp với
mình. Nếu con đường tu tập của Mật Tông Phật Giáo chứng minh được rằng
nó dẫn đến Níp bàn tịch tĩnh, vô ngã và không có sự tái sanh, thì nó
đúng là chủ trương của Đạo Phật.
IV. Giác ngộ theo quan điểm của một số các đạo sư đương thời
Rất
nhiều những đạo sư thời nay đã đưa ra phương thức đạt giác ngộ bằng chủ
trương “sống trong hiện tại”. Các vị này thuyết giảng “sống trong hiện
tại” như một trải nghiệm giác ngộ rất đơn giản và rất dễ dàng. Chỉ cần
quên quá khứ đi , đừng nghĩ gì về tương lai. Tập trung sự nhận biết và
“sống” ngay trong hiện tại này (right here and now). Vậy là sẽ có ngay
trải nghiệm về chân lý, tức trải nghiệm giác ngộ!
Câu
hỏi đặt ra là liệu con người bình thường có thể dùng ý chí (will,
volonte’) để quên đi quá khứ, quên đi tương lai mà sống trong hiện tại
hay không? Có thể “duy ý chí” trong việc tu tập hay không? Hay phải nhất
thiết phải cần có một phương pháp hiệu quả để thực hiện cái trạng thái
gọi là “sống trong hiện tại”! Phải cần có phương pháp và phải thực hành
thành công thì ta mới có thể “sống trong hiện tại” được. Krisnamurti ,
Eckhart Tolle, Osho v.v… và rất nhiều thiền sư ngày nay đã ca ngợi về
trạng thái “sống trong hiện tại” nhưng dường như ít đưa ra những phương
pháp thực hành cụ thể và hiệu quả nào!
Vấn
đề thứ hai phải được đặt ra. Trạng thái “sống trong hiện tại” kéo dài
được bao lâu? Chừng bao nhiêu phút? Những người tu tập có trải nghiệm
“chánh niệm tĩnh giác” sẽ hiểu rất rõ điều này. Nếu trạng thái “sống
trong hiện tại” quá ngắn ngủi, không kéo dài được (trong suốt cuộc đời),
thì phải hiểu đó là một giải pháp vô ích và hoàn toàn không giúp cho
con người mong muốn đạt được sự thanh thản trong kiếp này và không bị
tái sanh trong những kiếp sau!
Có
ai đã từng trải nghiệm trạng thái “sống trong hiện tại” sẽ thấy rằng
trạng thái tâm như vậy không thể kéo dài. Tùy theo năng lực, “sống trong
hiện tại” chỉ có thể kéo dài từ vài phút đến vài giờ. Sau đó, tâm sẽ
trở lại trạng thái bình thường. Nghĩa là tâm vẫn trở về trạng thái cũ,
chứa đầy ô nhiễm (lâu hoặc). Con người vẫn phải tiếp tục sống với những
căng thẳng, những điều bất như ý hoặc khổ đau (dukkha) và buộc phải nhận
ra là mình chưa giác ngộ và chưa hề giải thoát bao giờ cả! Ngay như
Thiền Định cũng chỉ kéo dài thông thường là vài giờ. Sau khi xuất định,
con người vẫn trở lại trạng thái phàm phu. Theo quan điểm của Đức Phật
thì thiền định không đưa đến trạng thái giác ngộ toàn triệt như ngài
mong đợi, nên trong lịch sử, Đức Phật đã phải thực hành thêm một phương
pháp khác nữa để đạt đại giác ngộ.
Đối
với Đạo Phật, trải nghiệm “sống trong hiện tại” chỉ là kết quả của
luyện tập Chánh niệm (right mindfulness). Trải nghiệm này không bền,
nghĩa là chánh niệm có thể mất đi rất nhanh bất cứ lúc nào. Đây chỉ là
phương pháp thực hành để hổ trợ cho việc phát triển thiền định. Ngay cả
khi đạt được thiền định, những trải nghiệm trong định cũng mất đi rất
nhanh sau khi xuất ra khỏi định. Các đạo sư thuộc Ấn Độ giáo không bàn
về sự chấm dứt tái sanh hoặc không chứng minh được khả năng chấm dứt tái
sanh. Theo giáo pháp của Đức Phật, nếu không hướng tới sự chấm dứt tái
sinh, thì cái gọi là “giác ngộ nhất thời” trong đời sống ngắn ngủi này
sẽ không có lợi ích gì nhiều. Tất cả các tôn giáo, giáo phái của Ấn Độ
giáo đều không xem việc chấm dứt tái sanh là cứu cánh của giải thoát. Có
thể họ cho đó là mục đích cao xa quá!
V. Một số các quan điểm phổ thông hiện nay về giác ngộ
Trên
các phương tiện truyền thông hiện nay như sách báo, internet, các mạng
xã hội v.v… có rất nhiều các thông tin “dường như” cố tìm liên hệ giữa
sự tỉnh thức hoặc giác ngộ với các trải nhiệm như:
VI. Giác ngộ theo giáo pháp của Đức Phật GautamaSự giác ngộ có thể biểu hiện ở các tâm giải thoát (ceto-vimutti)
Tâm
giải thoát là những trải nghiệm tâm, đạt được khi thành tựu các loại
thiền (hoặc là thiền định hoặc là thiền quán).Ví dụ khi thực hành thiền
về “tâm từ” thì kết quả khi đạt được là từ tâm giải thoát
(mettācetovimutti). Khi thực hànhthiền quán về “tánh không” thì kết quả
đạt được sẽ là Không tâm giải thoát (suññatā cetovimutti). Khi thực hành
“định vô sỡ hữu xứ” thì kết quả sẽ là Vô sở hữu tâm giải thoát
(ākiñcaññā cetovimutti).
Trong thời kỳ Đức Phật giảng dạy có nhiều Tâm Giải Thoát được đề cập trong kinh điển. Ví dụ:
Đặc biệt Tam (Ba) Giải Thoát (Vimokkha) gồm :
Là những tâm giải thoát này xuất phát từ thiền quán về Tam Tướng. Đó là Vô Thường tùy quán (aniccānupassanā), Khổ tùy quán (dukkhānupassanā), Vô Ngã tùy quán (anattānupassanā) [15]. Nghĩa là Ba Giải Thoát được hình thành trong quá trình thực hành Tuệ Quán (vipassana) về Vô Thường, Khổ và Vô Ngã
Bất Động tâm giải thoát (akupa-cetovimutti) là biểu hiện của giác ngộ hoàn toàn trong Đạo Phật
Các Tâm giải thoát được hiểu là những biến cố của tâm (events of mind) xảy ra trong tiến trình đi đến giải thoát.
Nếu
sự tu tập các tâm giải thoát được thực hành riêng lẽ, không đặt nền
tảng diệt trừ các lậu hoặc (ô nhiễm) thì các tâm giải thoát này sẽ không
phát triển thành một giác ngộ hoàn toàn theo chánh pháp.
Ngược
lại nếu sự tu tập các tâm giải thoát này đặt nền tảng trên sự diệt trừ
các lậu hoặc thì cuối cùng chúng sẽ trở thành tâm bất động. “Bất động
tâm giải thoát” là trạng thái tối thượng so với các tâm giải thoát khác,
vì đó là tâm giải thoát không còn tham, sân, si. Nghĩa là không còn mầm
mống cho sự tái sanh (vô sanh)
Đây
là quan điểm của Đạo Phật nguyên thủy, được thuyết giảng trong nhiều
bài kinh như: MN 043. MAHĀVEDALLASUTTAṂ, kinh MN 127 ANURUDDHASUTTA,
kinh SN, thiên sáu xứ, chương VII, tương ưng tâm, kinh GODATTA v.v…
Hai yếu tố chính của giác ngộ “hoàn toàn” theo quan điểm của Đạo Phật nguyên thủy1. Vượt thoát khỏi tất cả những đau khổ vốn có của đời sống.
Tâm
đạt được trạng thái gọi là Tâm giải thoát “bất động” (Pāli: akuppā
cetovimutti), không lay chuyễn vì không còn bị ô nhiễm bởi tham, sân,
si.
“Và
này Bà-la-môn, tâm giải thoát bất động chính là mục đích của phạm hạnh
này, là lõi cây của phạm hạnh, là mục tiêu cuối cùng của phạm hạnh…” ( Tiểu kinh Ví dụ lõi cây MN 030 – Bản dịch Thích Minh Châu)
2. Chấm dứt được quá trình tái sinh (quả vô sanh)
Giáo
pháp của Đức Phật giúp con người không phải lập lại những chu kỳ vô tận
của đời người mong manh và ngắn ngủi bởi sinh-lão-bệnh-tử.
Nếu
tu tập giới, định, tuệ theo đúng chánh pháp pháp, phàm phu sẽ có thể
giác ngộ và trở thành một vị gọi là A La Hán. A La Hán là vị có tâm an
tĩnh bất động, không còn dư tàn của tất cả tham, sân, si. Vì không còn
tham, sân, si làm mầm mống do đó không còn tái sanh trong bất cứ cõi
giới nào. Như trong các bài kinh Nikaya, sau khi giác ngộ, các vị A La
Hán thường nói: Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm
v.v…”
Ví dụ, trong kinh MN 037 Tiểu kinh Đoạn Tận Ái:
“Vị
ấy nhờ sống quán tánh vô thường, sống quán tánh ly tham, sống quán tánh
đoạn diệt, sống quán tánh xả ly trong các cảm thọ ấy, nên không chấp
trước một vật gì ở đời; do không chấp trước nên không phiền não, do
không phiền não, vị ấy chứng đạt Niết-bàn. Vị ấy tuệ tri: “Sanh đã tận,
phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm, không còn trở lại đời này
nữa…” (bản dịch của Thích Minh Châu)
Các đặc điểm khác của Giác Ngộ trong Đạo Phật nguyên thủy
Các
giáo phái thuộc hệ tư tưởng Bà La Môn hoặc các giáo phái bí mật như
Sanmat cho rằng Thầy có thể truyền tâm, khai ngộ (initiate) cho đệ tử .
Phải cẩn thận vì chữ “khai ngộ” ở đây không phải là giác ngộ hoàn toàn.
Truyền thống Vedanta còn cho rằng một người chỉ tu tập thành công khi có
một minh sư còn sống!
Lịch
sử Đạo Phật còn biết rõ Anan vốn là thị giả, người thân cận nhất, đồng
thời cũng là người anh em cùng cha khác mẹ với Đức Phật, nhưng mãi tận
đến sau khi Đức Phật nhập diệt ngài mới chứng quả A La Hán. Rõ ràng Đức
Phật không thể gánh nghiệp cho Anan hoặc cho bất cứ ai, cũng như không
thể gia trì cho Anan hoặc cho bất cứ ai sớm chứng đắc đạo quả được.
Trong khi có các “minh sư” ngoài Đạo Phật tuyên bố “gánh nghiệp”, “xóa
nghiệp” cho các tín đồ! Nhưng Đức Phật trong qúa khứ đã không gánh
nghiệp, xóa nghiệp cho bất cứ ai!
1. Tầng thánh thứ nhất: Sơ quả hay Tu đà hoàn (Sotàpatti, Dự lưu), còn được gọi là Thất lai, người không thể tái sinh quá 7 lần
2. Tầng Thánh thứ hai: là Nhị quả Tư đà hàm còn được gọi là Nhất lai (Sakadàgàmì) chỉ tái sinh trong Dục giới một lần nữa
3. Tầng Thánh thứ ba: là Tam quả A na hàm (Anàgàmi), nghĩa là bậc Bất lai, người không còn trở lui các cõi dục giới nữa
4. Tầng Thánh thứ tư chính là quả vị A La hán, người chấm dứt toàn bộ phiền não, không còn tái sanh nữa.
Trong kinh Sư Tử Hống, Đức Phật đã thuyết pháp mạnh mẽ, như tiếng rống
của Sư tử, rằng chỉ có bốn quả Sa Môn (bốn bậc thánh) mới là đặc thù
của Chánh Pháp mà ngài đã thuyết giảng.– Này các Tỷ-kheo, chỉ ở đây là
có Sa-môn thứ nhất; ở đây là có Sa-môn thứ hai; ở đây là có Sa-môn thứ
ba; ở đây là có Sa-môn thứ tư; các ngoại đạo khác không có Sa-môn. Này
các Tỷ-kheo, các Ông hãy chân chánh rống tiếng rống sư tử như vậy. (MN
011- Tiểu kinh Sư Tử Hống, Trung Bộ Kinh)
Đạo
Phật thời Đức Phật còn tại thế đã mô tả một đạo lộ Giới-Định-Tuệ rõ
ràng cho sự tu tập. Dùng chữ “Đạo lộ” là ý muốn nói đến một chương trình
tu tập theo thứ tự (step by step) để người tu biết cách rèn luyện làm
thế nào để chuyển biến một tâm thức phàm phu đến các tầng bậc chứng ngộ (
đạo quả) và cuối cùng giác ngộ Níp-bàn.
Bởi
vì nội dung giác ngộ có khác nhau nên phương cách tu tập và thực hành
phải khác nhau. Đối với Ấn giáo Bà La Môn (gồm rất nhiều tôn giáo), giác
ngộ cao nhất tương ứng với sự tái sanh cõi trời “cao” nhất. Một tu sĩ
bà La Môn giữ phạm hạnh tuyệt đối để thực hành thiền định (samadhi),
nếu thành công (đắc định) người tu sĩ này sẽ đạt đến cõi trời (thiên
đàng) tương ứng của mức độ định mà mình tu tập được. Đức Phật cũng từng
chứng đắc đầy đủ tám định của Bà La Môn nhưng Ngài không thấy cõi trời
tối cao là Giải Thoát tối thượng. Không thỏa mãn với các tầng trời, và
bằng sự tự tin mãnh liệt, đã khiến ngài quyết định thực hành một phương
pháp riêng và đã tạo nên một kì tích tại cội Bồ Đề. Phương pháp đó gọi
là Tuệ Quán hoặc Thiền Tuệ (Vipassana). “Chánh pháp” của Đạo Phật là tất
cả những gì Đức Phật đã thực hành 49 ngày dưới cội Bồ Đề tại Bodhgaya.Kinh điển có ghi lại diễn tiến tâm thức của Đức Phật dưới cội Bồ Đề trong khi Ngài thực hiện giác ngộ.
Ví dụ Kinh Saccaka kể lại việc Đức Phật đã thực hành Thiền quán sau khi đã nhập và xuất bậc Định thứ tư (tứ thiền):
“…Với
tâm định tĩnh, thuần tịnh, trong sáng không cấu nhiễm, không phiền não,
nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh như vậy, Ta dẫn tâm, hướng
tâm đến Lậu tận trí. Ta biết như thật: “Ðây là Khổ”, biết như thật:
“Ðây là Nguyên nhân của khổ”, biết như thật: “Ðây là sự Diệt khổ”, biết
như thật: “Ðây là Con đường đưa đến diệt khổ”, biết như thật: “Ðây là
những lậu hoặc”, biết như thật: “Ðây là nguyên nhân của lậu hoặc”, biết
như thật: “Ðây là sự diệt trừ các lậu hoặc”, biết như thật: “Ðây là con
đường đưa đến sự diệt trừ các lậu hoặc”. Nhờ biết như vậy, nhận thức như
vậy, tâm của Ta thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô
minh lậu. Ðối với tự thân đã giải thoát như vậy, Ta khởi lên sự hiểu
biết: “Ta đã giải thoát.” Ta đã biết: “Sanh đã diệt, phạm hạnh đã thành,
việc cần làm đã làm, sau đời hiện tại không có đời sống nào khác nữa”.
Này Aggivessana, đó là minh thứ ba mà Ta đã chứng được trong canh cuối,
vô minh diệt, minh sanh, ám diệt, ánh sáng sanh, do Ta sống không phóng
dật, nhiệt tâm, tinh cần. Như vậy, này Aggivessana, lạc thọ sanh nơi Ta,
được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta. …”
Trong
kinh điển không ghi nhận bất cứ trường hợp nào đột nhiên mà giác ngộ.
Giác ngộ chỉ xảy ra sau một quá trình tu tập. Dù ai cũng muốn sự tu tập
của mình được nhanh chóng, ai cũng muốn tìm được con đường tắt, nhưng
cũng nên hiểu rõ tính gian khó của việc tu tập qua lịch sử của Đạo Phật
còn để lại. Cái nào cũng có cái giá của nó! Rất khó để tin rằng một
người có thể bất ngờ, tự nhiên hay “hốt nhiên” mà đại ngộ được! Nếu có,
thì đó là một nội dung giác ngộ hoàn toàn khác với giác ngộ của Đức Phật
đã thực hiện dưới cội Bồ đề.
Níp bàn (Nibbana) - còn gọi là Niết Bàn
Giác
ngộ của Đạo Phật gọi là Níp Bàn (Nibbana). Níp bàn không phải Thượng Đế
(God), không phải Đấng sáng tạo mà chỉ là trạng thái tâm đoạn tận được
các ô nhiễm (lậu-hoặc, taints), không còn bị tham ái, sân, si khống chế.
Với trạng thái tâm trong sạch thanh tịnh đó, con người giác ngộ hoàn
toàn tự do, không tái sanh, vô sanh (Ajāti), không ‘trở thành”, không
già, không bệnh, không chết. Níp Bàn không phải là trạng thái đoạn diệt
và hư vô (annihilation). Níp Bàn được ví như khi ngon lửa tắt đi nhưng
thực sự nó không mất đi đâu, giống như khi nó sanh ra, nó chẳng từ đâu
đến.
Các
bậc Thánh thường mô tả trạng thái giác ngộ là trạng thái Tâm định tĩnh,
kiên cố, không lay chuyển được (akuppa cetovimutti) hoặc là trạng thái
“không tái sanh” . Sau khi giác ngộ, các ngài thường nói:
“Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, nay không thối lui nữa!”
Một số trích dẫn từ kinh điển khi giải thích Nip Bàn
Đồng
nghĩa với Níp bàn giới, này các Tỷ kheo, là nhiếp phục tham, nhiếp phục
sân, nhiếp phục si. Cũng được gọi là đoạn tận các lậu hoặc.”
“Đoạn
tận tham, đoạn tận sân, đoạn tận si, này các Tỷ kheo, được gọi là bất
tử. Con đường Thánh đạo tám ngành là con đương đưa đến bất tử.”
(Tương Ưng V )
Hoặc
“Này
các Tỷ kheo! Thân của đức Như lai còn tồn tại, nhưng cái khiến đưa đến
một đời sống khác đã bị chặt đứt. Khi thân của vị này tồn tại thời Chư
Thiên và loài người có thể thấy thân ấy. Khi thân hoại mạng chung thời
Chư thiên và loài người không thể thấy được.”
(Trường Bộ I, Phạm Võng – 46)
Hoặc:
“Này
các Tỷ kheo, có xứ này tại này, không có đất, không có nước, không có
lửa,, không có gió , không có hư không vô biên … không có phi phi tưởng
xứ; không có đời này, không có đời sau; không có cả hai mặt trăng mặt
trời. Do vậy, này các Tỷ kheo ! Ta tuyên bố không có đến, không có đi,
không có trú, không có diệt, không có sanh, không có an trú, không có
chuyển vận, không có sở duyên. Đây là sự đoạn tận khổ đau.”
(Phật tự thuyết, UD 80 – 381)
Hoặc:
“Này
các Tỷ kheo, có cái không sanh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu
vi. Này các Tỷ kheo, nếu không có cái không sanh, không hiện hữu, không
bị làm, không hữu vi, thời ở nay không thể trình bày sự xuất ly khỏi
sanh, hiện hữu, bị làm, hữu vi. Vì rằng, này các Tỷ kheo, có cái không
sanh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi, nên có thể trình bày
sự xuất ly khỏi sanh, hiện hữu, bị làm, hữu vi.”
“Cái
gì có nương tựa, cái ấy có giao động; cái gì không nương tựa, cái ấy
không giao động. Không có giao động thời có khinh an, có khinh an thời
không có thiên về, không có thiên về thời không có đến và đi, không có
đến và đi thời không có diệt và sanh, không có diệt và sanh thời không
có đời này, không có đời sau, không có đời giữa. Đây là sự đoạn tận khổ
đau.”
(Phật tự thuyết, UD 81 – 382)
Níp
Bàn là một phạm trù đặc biệt. Thực sự với đầu óc phàm phu chúng ta
không thể mô tả Níp-bàn là gì! Vì đây là lãnh vực trải nghiệm trực tiếp
của các bậc đã hoàn toàn giác ngộ. Tuy nhiên, quy trình đi đến giác ngộ
để trải nghiệm Níp-bàn thì hoàn toàn có thể mô tả được!
Đạo lộ đưa đến giác ngộ của Đạo Phật nguyên thủy
Đạo
Phật với sự hướng dẫn của Đức Phật chỉ tồn tại hơn hai trăm năm. Hiện
nay, tông phái của Đạo Phật xưa cổ nhất, duy nhất còn tồn tại là
Theravada (Thera có nghĩa là trưởng lão). Theravada được coi như Đạo
Phật nguyên thủyvới Luật, Kinh, Thắng Pháp (vi Diệu Pháp) và các bộ chú
giải (commentaries) được bảo tồn khá đầy đủ. Phương cách thực hiện giác
ngộ của Theravada dựa trên kinh Nikaya, bộ Phân Tích Đạo của ngài Xá Lợi
Phất và bộ luận Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) của ngài Buddhaghosa. Bộ
Thanh Tịnh Đạo không phải là quan điểm riêng của ngài Buddhaghosa. Đây
là qui trình tu tập dựa trên Kinh-điển và Vi Diệu Pháp:
– Hành giả trước tiên thanh lọc thân tâm bằng giới (sila),
– Sau đó thực hành thiền định (samadhi) để hỗ trợ Giới và hỗ trợ Tuệ quán (vipassana) sau này.
–
Sự giác ngộ được thực hành tuần tự qua 16 tầng thiền tuệ từ thấp lên
cao. Thiền tuệ là phương pháp quan sát thế giới (vật chất và tinh thần)
bằng cách quan sát thân tâm của chính hành giả. Bằng năng lực của Định,
hành giả thấy rõ từng tâm phát khởi, thấy rõ quá trình tâm duyên hợp
phát sinh rồi hủy diệt. Sự biết và thấy rõ các tâm phát sinh ra các trí.
Qua mười một tầng tuệ đầu tiên hành giả sẽ bắt đầu trực nhận Níp bàn:
“…Sau
khi chứng đắc các tuệ này, hành giả vẫn tiếp tục công việc thấy sự trôi
qua và diệt mất của mỗi hành khi chúng khởi lên, với ước muốn thoát
khỏi chúng, hành giả sẽ thấy ra rằng cuối cùng tất cả các hành đều diệt.
Tâm hành giả trực tiếp biết và thấy Niết-bàn – đó là ý thức trọn vẹn về
(vô vi) Niết-bàn kể như đối tượng.
Khi tâm thấy Niết-bàn, hành giả kinh qua năm tuệ còn lại cùng với sự khởi lên của tiến trình tâm đạo (maggavīthi). Năm tuệ đó là:
12. Tuệ Thuận Thứ (Anulama ñāṇa)
13. Tuệ Chuyển Tộc (Gotrabhù ñāṇa)
14. Tuệ Đạo (Magga ñāṇa)
15. Tuệ Quả (Phala ñāṇa)
16. Tuệ Phản Khán (Paccavekkhana ñāṇa)
Như
vậy hành giả đã đạt đến chánh trí về Tứ Thánh Đế và đã tự mình chứng
ngộ Niết-bàn. Với sự chứng ngộ này, tâm hành giả đã được tịnh hóa và
thoát khỏi mọi tà kiến. Nếu hành giả cứ tiếp tục theo cách này, có thể
hành giả sẽ đạt đến A-la-hán Thánh quả và nhập Vô Dư Niết-bàn…” [16]
Đạo
lộ tu tập Theravada hoàn chỉnh được tìm lại căn cứ theo các bộ Nikaya,
theo Vi diệu pháp, theo Phân tích đạo, theo Thanh Tịnh đạo luận
(Visudhimagga). Ngay vào lúc giác ngộ, người giác ngộ sẽ trực tiếp nhìn
thấy lộ trình tâm giác ngộ của chính mình. Khi đã “hữu duyên” biết đến
những thông tin này, những ai tha thiết với sự truy tìm giác ngộ sẽ phải
bật khóc khi biết đến tính minh bạch và tầm vóc vĩ đại của giáo pháp mà
Đức Phật đã giảng dạy.
Đạo
Phật của Đức Phật Gautam được giảng dạy công khai, không dấu diếm,
không bí truyền. Tính thần bí và bí truyền cũng như tính luôn đề cao vai
trò của giáo chủ hay của tha lực là một đặc diểm của Ấn giáo. Sự truyền
tâm (initiation) chỉ là một kĩ thuật hổ trợ loại giác ngộ trong tam
giới. Kĩ thuật truyền tâm không có tác dụng gì trong Giác Ngộ Tối Thượng
của Đạo Phật Phật (ý nói Đạo Phật chính thống và nguyên thủy). Nguyên
lý trong sự giác ngộ của Đạo Phật là sự phát tiển các Tuệ (wisdom) tức
sự hiểu biết hướng đến giải thoát. Tuệ giác ngộ không phải là phạm trù
mơ hồ hay thần bí. Tuệ để thực hiện giác ngộ có thể liệt kê, đếm và mô
tả được [17].
Mười sáu tuệ trong sự thực hành Vipassana là những tuệ căn bản nhất.
Chỉ có đầy đủ tuệ giác ngộ mới có được lộ trình tâm giác ngộ.
Lộ Trình Tâm khi giác ngộ
Vi
Diệu Pháp (abhidhamma), một bộ luận được Theravada xếp vào Chánh tạng,
đã phân tích chi tiết tâm thức của con người thành các tâm (citta) và
các lộ trình tâm (citta vithi). Đối với một người bình thường, ý môn lộ
trình tâm vận hành theo một kiểu nhất định. Khi một người đạt giác ngộ, ý
môn lộ trình tâm lại vận hành theo một kiểu khác:
1. Ý môn lộ trình tâm “bình thường” của tất cả mọi người (phàm phu)
Bắt đầu và theo thứ tự như sau:
– Tâm “Hộ kiếp rúng động” (một sát na)
– Tâm “Hộ kiếp dứt dòng” (một sát na)
– Tâm “Ý môn hướng” (một sát na)
– Tâm “Đổng Tốc” (7 sát na)
– Tâm “Thập Di” (2 sát na)
Cuối
cùng, ý thức rơi trở vào dòng Tâm Hộ kiếp còn gọi Tâm Hữu phần (life
continuum). Nếu kể cả tâm Hộ kiếp, thì một lộ trình tâm của ý thức của
một người bình thường trong đời sống hàng ngày gồm có 12 sát-na tâm.
Khác
với cách giải thích mù mờ, thần bí và huyễn hoặc về sự giác ngộ của tất
cả các tôn giáo thần khải cũng như các giáo phái Bà la môn, Sanmat,
Thiền Tông Trung Quốc v.v…và kể cả các Đạo Phật gọi là “phát triển”,
giác ngộ trong Đạo Phật nguyên thủy là một sự kiện minh bạch. Với sự hổ
trợ của năng lực Thiền định, người thực hành Tuệ quán (Vipassana) có thể
nhận biết rõ ràng từng tâm (citta) và các lộ trình tâm (citta vithi)
của mình, trong lúc chưa giác ngộ cũng như trong lúc giác ngộ. Đây không
phải chỉ là một lý thuyết trên kinh điển. Trong quá khứ các vị A-La-Hán
đã mô tả các tâm, lộ trình tâm bằng trải nghiệm của mình và ghi lại
trong tạng Vi Diệu Pháp. Trong hiện tại, đang có các vị sư thực hiện
thành công pháp tuệ quán này. Khi giác ngộ, người tu có thể tự nhận biết
sự giác ngộ của mình bằng một lộ trình tâm giác ngộ với 11 tâm như sau:
2. Ý môn lộ trình tâm của người “Giác Ngộ”
Với kí hiệu cụ thể như sau:
– Đối với người có trí tuệ chậm lụt (Mandapanna)
Na – Da – Ma – Pa – U – Nu – Go – Magga – Phala – Phala – Bh –
– Hoặc đối với người có trí tuệ nhạy bén (Tikkhapana)
Na – Da – Ma – U – Nu – Go – Magga – Phala – Phala – Phala – Bh –
Giải thích các kí hiệu :
Na = bhavaṅga-calana – hữu phần (hộ kiếp) rúng động, – vibrating life-continuum
Da = bhavaṅgu-paccheda – hữu phần (hộ kiếp) dứt dòng – arrested life-continuum
Ma = manodvārāvajjana – ý môn hướng tâm -door adverting consciousness
Pa = parikamma – chuẩn bị của Đạo (magga) – preparation of the Path (magga)
U = upacāra – cận hành của Đạo (magga) – proximity of the Path (magga)
Nu = anuloma – thuận thứ cho cái đi trước và cái theo sau – conformity to what preceeds and to what follows
Go = gotrabhu – chuyển tộc – change-of-lineage
Magga = sotāpattimagga – Đạo Nhập Lưu – the Path of stream-entry
Phala = sotāpatti-phala – Quả Nhập Lưu – the Fruition of stream-entry
Bh = bhavaṅga – hữu phần (hộ kiếp) – life-continuum
Chỉ
trừ một số người, mà Pháp Học chưa được nắm vững, thì có thể không nhận
biết được các tâm trong tiến trình giác ngộ (nhập lưu). Một người thuần
thục về Pháp học, với tuệ quán đúng cách, sẽ nhận biết rõ các tâm trong
tiến trình giác ngộ, thấy được sát-na của tâm chuyển tộc, ngay lúc
chuyển phàm thành thánh.
Kể
từ khi Đức Phật đại giác ngộ và tuyên thuyết giáo pháp của Ngài cho tới
ngày nay, chưa có một tôn giáo hay tông phái nào có khả năng mô tả “lộ
trình tâm” của một người khi giác ngộ. Qua sự mô tả chi tiết lộ trình
tâm giác ngộ, Đạo Phật có cái nhìn về sự giác ngộ rất rõ ràng, rất minh
bạch và rất chuẩn mực so với sự mơ hồ đầy thần bí của sự giác ngộ trong
tất cả mọi tôn giáo khác.
Tóm tắt
Trên
con đường tu tập tâm linh, người tu nhất thiết phải hình dung về cái
đích đến của mình. Nghĩa là, phải xác định loại giác ngộ, giải thgoát
nào mà mình thực sự muốn nhắm đến. Tức phải tìm câu trả lời thật chính
xác cho câu hỏi “Giác Ngộ là gì?”. Như đã trình bày, có rất nhiều loại
giác ngộ do các minh sư, guru, giáo chủ đã từng thuyết giảng qua nhiều
thời đại. Tu tập loại giác ngộ nào, đó là sự lựa chọn của riêng của từng
mỗi cá nhân. Đối với những ai ngưỡng mộ giáo pháp của Đức Phật, cần
phải nhận biết loại “giác ngộ” rất đặc thù của Đạo Phật. Sự thực hiện
Giác Ngộ trong Đạo Phật không hề có tính thần bí mơ hồ. Đó là một quy
trình tu tập đã được mô tả rõ ràng, minh bạch. Người giác ngộ sẽ sống
trong hiện kiếp này với trạng thái định tĩnh, thanh thản, an lạc. Đồng
thời sẽ không còn có sự tái sanhđể lại phải tiếp tục chịu khổ đau.
BS. Phạm Doãn
(Saigon 28/04/2013)
—————–
Chú thích:
[1]
Với tiếng Anh, chữ “enlightenment” có thể làm liên tưởng đến phong
trào triết học gọi là thời kì khai sáng ở giữa thế kỉ 19.
Chữ “awakening” cũng vậy, từ lâu chữ này đã mang một ý nghĩa phục sinh,
phục hưng, phục dựng cho các phong trào tôn giáo hay văn hóa của phương
Tây
[3] Vedanta là một trường phái triết học Ấn Độ phát triển dựa trên Upanisad.
[4]
Đạo của ngài Thanh Hải (một nhánh của Sanmat) dùng chữ “truyền tâm ấn”.
Xem phả hệ dòng Sanmat của ngài Thanh Hải tại link này: http://santmat.
[5] Trích từ tác phẩm “Osho Tự Truyện”, chuyển ngữ: Minh Nguyệt, tác giả: OSHO
[6] Tăng Chi bộ kinh, chương nói về hào quang ( AN. 11.139)
[7] Trích từ Biết và Thấy, tác giả Pa Auk Sayadaw
[8] tham khảo thêm tại link này: http://bsphamdoan.
[9] Trái Tim của Bụt- Thích Nhất Hạnh. Bài thứ 17: Tam Pháp Ấn
[10] Thiền Luận, tác giả Daiset Teitaro Suzuki, bản dịch Trúc Thiên, quyển thượng, luận hai, đoạn: Thiền và Ngộ
[11] Mười bức tranh trâu http://www.budsas.org/
[12] Đức Sơn Tuyên Giám (zh. déshān xuānjiàn 德山宣鑒, ja. tokusan senkan),
782-865, là Thiền sư Trung Quốc, một trong những Thiền sư lỗi lạc nhất
đời Đường. Sư có 9 môn đệ được ấn khả, trong đó hai vị Nham Đầu Toàn
Hoát và Tuyết Phong Nghĩa Tồn đứng hàng đầu. Sư nối pháp Long Đàm Sùng
Tín thuộc dòng Thanh Nguyên Hành Tư và Thạch Đầu Hi Thiên. Nhân duyên
ngộ đạo của Sư là một trong những câu chuyện thường được nhắc lại nhất
trong giới Thiền. Sư nổi danh về việc sử dụng cây gậy để giáo hoá (đập)
thiền sinh, từ đó mà sinh ra danh từ Bổng hát, chỉ cây gậy (bổng) ngang
dọc của Sư và tiếng hét (Hát) vọng vang của Lâm Tế Nghĩa Huyền.
(Wikipedia)
[13] Giới thiệu mật tông Việt Nam: http://bsphamdoan.
[14] DN 16 Kinh Đại Bát Niết bàn: Tụng phẩm 2, đoạn 25
“…Này
Ananda, chúng Tỷ-kheo còn mong mỏi gì nữa ở Ta! Này Ananda, Ta đã giảng
Chánh pháp, không có phân biệt trong ngoài (mật giáo và không phải mật
giáo), vì này Ananda, đối với các Pháp, Như Lai không bao giờ là vị Ðạo
sư còn nắm tay (còn giữ lại một ít mật giáo chưa giảng dạy). (Kinh Đại
Bát Niết bàn, đoạn 25, T.T Thích Minh Châu dịch ra tiếng Việt)
[15] Đoạn Trừ Lậu Hoặc, phần II, tác giả HT Buddharakkhita, dịch giả Tỳ Khưu Pháp Thông
[16]
Biết và Thấy (Knowing and Seeing), đoạn: Biết và thấy niết bàn, tác
giả: Pa-Auk Tawya Sayadaw (U Acinna), Tỳ khưu Pháp Thông dịch.
[17] Về các Tuệ để thực hiện Giác Ngộ , quý vị có thể đọc thêm phân tích chi tiết trong bài: “Tuệ và Giác Ngộ” (http://bsphamdoan.wordpress.
|