Các câu hỏi liên quan đến
Lễ Phật Ðản
1) Kính mong VP.PHTQ CANADA giải đáp thắc mắc sau đây của một số Phật Tử thường đi chùa lễ Phật tụng kinh: Hằng năm vào dịp rằm tháng tư âm lịch, khắp nơi tổ chức Lễ Phật Ðản một cách long trọng, thành kính và trang nghiêm. Tuy nhiên, có nhiều người theo đạo Phật vẫn cảm thấy chán đời vì cuộc đời đầy đau khổ, bất trắc, đấu tranh, lừa đảo. Việc tổ chức các buổi Lễ Phật Ðản có ý nghĩa gì, có ích lợi gì cho mọi người?
2) Trong các buổi Lễ Phật Ðản, có nghi thức "tắm Phật", Phật Tử không hiểu ý nghĩa, kính mong VP.PHTQ CANADA vui lòng giải thích.
3) Nhân dịp Lễ Phật Ðản, kính mong VP.PHTQ CANADA hoan hỷ giải thích thắc mắc sau đây: Bức tranh vẽ Ðức Phật đản sanh bước trên 7 đóa hoa sen, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất, có ý nghĩa gì?
4) Kính mong VP.PHTQ CANADA hoan hỷ giải thích sự khác nhau giữa Phật Lịch 2561 và Phật Ðản 2641?
Phần giải đáp
Giải đáp 1: Năm nay, ngày rằm tháng
tư (15-4) âm lịch, nhân lễ kỷ niệm lần thứ 2641 Ðức Phật Thích Ca đản sanh,
nhằm ngày 10-5-2017 (Phật lịch 2561), chúng ta cùng nhau ôn lại lịch sử và tìm
hiểu ý nghĩa thâm trầm của ngày lễ trọng đại này.
Ðức Phật Thích Ca đản sanh tại vườn Lâm Tỳ Ni thuộc
xứ Ca Tỳ La Vệ, được gọi là Thái tử Tất đạt đa (hay Sĩ đạt tha), con của đức
vua Tịnh Phạn và Hoàng hậu Ma Gia. Ngài lớn lên trong hoàng cung, vâng
lệnh song thân lập gia đình với Công chúa Gia du đà la và hạ sanh Thái tử La
hầu la. Trong các chuyến xuất cung du ngoạn ngoại thành, Ngài chứng kiến
các cảnh: sanh, lão, bệnh, tử trong
nhân gian. Từ đó, Ngài luôn luôn trầm tư mặc tưởng, muốn tìm phương tự độ
và cứu giúp chúng sanh thoát khỏi cảnh trầm luân sanh tử, cho nên Ngài lìa bỏ
hoàng cung, lên đường tìm đạo giải thoát.
Sau 6 năm tu khổ hạnh ở chốn rừng già và 49 ngày
đêm ngồi thiền định dưới cội cây bồ đề, tâm trí thanh tịnh, Ngài hoát nhiên
giác ngộ, thành Phật, thành bậc vô thượng chánh đẳng chánh giác, vào năm Ngài
được 35 tuổi. Sau đó, Ngài đi khắp nơi thuyết pháp, đem chân lý giác ngộ
giảng dạy cho mọi người trong 45 năm ròng rã, và Ngài thị tịch, nhập niết bàn,
năm 80 tuổi tại khu rừng ta la song thọ.
Toàn bộ lịch sử của đức Phật Thích ca từ ngày đản
sanh, đến thành đạo và nhập niết bàn, cũng như toàn bộ giáo lý của Phật giáo,
không phân biệt tông phái, nêu lên những điểm quan trọng như sau:
1) Mọi người trên thế gian đều có thể trở thành một vị Phật, một bậc sáng suốt giác ngộ, không phân biệt nam nữ, xuất xứ, đẳng cấp, trẻ già, thời đại, đã có gia đình hay chưa, nếu người đó biết tu tập theo đúng chánh pháp. Có hằng hà sa số các vị Phật, từ quá khứ, đến hiện tại và vị lai. Chứ không phải chỉ có một vị Phật duy nhất làm giáo chủ là đức Phật Thích ca, còn tất cả các loài chúng sanh khác đều phải thờ lạy theo tinh thần van xin, cầu khẩn một cách tiêu cực. Ðây chính là ưu điểm nổi bậc của đạo Phật.
2) Ðức Phật không phải là vị thần linh, hay thượng
đế tưởng tượng, chuyên ban phước ra ơn hay giáng họa trừng phạt. Cho nên
những ai cúng kiến, tin tưởng, thờ lạy đức Phật theo tinh thần van xin, cầu
khẩn một cách tiêu cực, dù ở chùa hay ở nhà, đều không đúng chánh pháp, không
đạt được những ước muốn như ý. Bởi vậy, xin xỏ nhiều thì thất vọng nhiều,
cúng kiến nhiều thì buồn phiền nhiều, tin tưởng nhiều thì đau khổ nhiều.
Trái lại, những người sống đúng theo tinh thần những lời dạy của đức Phật, dù
tại gia hay xuất gia, dù có thờ lạy đức Phật hay không, dù có
theo tông phái nào hay không, thảy đều được an lạc và hạnh phúc hiện
thời, giác ngộ và giải thoát mai sau. Ðây
chính là điểm bình đẳng tuyệt đối của đạo Phật.
3) Từ trước thời đức Phật xuất hiện trên thế gian này, cuộc đời vẫn thường đầy dẫy những sự đau khổ, bất trắc, đấu tranh, lừa đảo, chứ không phải chỉ có thời hiện tại mà thôi. Do đó, giáo lý của đạo Phật thường được ví như chiếc thuyền, gọi là thuyền bát nhã, dùng từ bi và trí tuệ giúp đỡ con người vượt qua bể khổ, sông mê, lướt qua bát phong của cuộc đời, đến bến bờ giác ngộ và giải thoát. Ðức Phật vẫn sống ngay trên thế gian này, vẫn gặp bao nhiêu khổ nạn của cuộc đời, nhưng tâm trí của Ngài vẫn an nhiên tự tại, không cần phải đợi đến lúc vãng sanh về tây phương cực lạc hay thăng lên thiên đàng! Ðây chính là điểm cốt tủy của đạo Phật.
4) Ðạo Phật là một tôn giáo, cho nên cũng có những hình thức cúng kiến, lễ lạy, cầu nguyện, để giúp đỡ những người đang đau khổ trên thế gian này tìm đến với đạo, trong những bước ban đầu. Nếu như con người, dù tại gia hay xuất gia, đến với đạo Phật nhưng chỉ biết những hình thức cúng kiến, lễ lạy, cầu nguyện mà thôi, cứ đứng ở đó bao nhiêu năm trời, cho rằng như vậy là đủ rồi, không chịu bước thêm bước nữa, bước đó là: tìm hiểu xem Ðức Phật dạy những gì để áp dụng trong cuộc sống hằng ngày, chánh pháp ở đâu, thì đau khổ vẫn hoàn khổ đau, có khác chi bao nhiêu người khác đâu? Ðây chính là điểm ứng dụng thực tế của đạo Phật.
5) Các buổi lễ của Phật giáo, quan trọng nhứt là Lễ Phật Ðản, đều nhằm mục đích dẫn dắt con người đến với đạo, xoa dịu bớt những nỗi khổ đau của cuộc đời. Và mục đích quan trọng hơn hết là: "hãy bước vào cửa đạo", hay "Phật Đạo", chứ không phải chỉ bước vào cửa chùa rồi thôi, hoặc vẫn cứ đi lang thang, lòng vòng bên ngoài, bằng lòng với các hình thức cúng kiến, lễ lạy, các buổi văn nghệ xổ số, các cuộc hành hương thương mại, các cuộc vận động cầu vãng sanh lưu xá lợi, kêu gọi đóng góp tạo chùa to tượng lớn, chiêm bái tượng Phật Ngọc, lễ hội Quán Âm đam mê chuyện trời rải hoa mạn đà la, hoa mạn thù sa, hay hoa trời linh thiêng, thích chuyện linh thiêng huyền bí hấp dẫn, mà không quan tâm việc tu học, tu tâm dưỡng tánh, không biết đến chánh pháp là gì?
Bước vào cửa đạo, viên thành Phật đạo, nghĩa là
phải biết tu học theo lời đức Phật dạy trong các kinh sách, để đạt giác ngộ và
giải thoát, chứ không phải tu mù, ai bảo sao làm vậy, ai nói sao nghe vậy, hết
sức mê tín dị đoan! Ðây chính là điểm cứu
cánh mầu nhiệm cao siêu của
đạo Phật.
Giải đáp 2: Theo truyền thuyết,
ngay khi Thái tử Tất đạt đa đản sanh, có hai vị Long vương đến phun hai dòng
nước tắm cho Thái tử. Một vị phun dòng nước lạnh và một vị phun dòng nước
nóng. Hai dòng nước lạnh và nóng
tượng trưng cho hai cảnh giới thuận và nghịch của cuộc đời, hai cảnh giới vui
và buồn, sướng và khổ của cuộc sống hằng ngày, mà tất cả mọi người sanh ra
trên thế gian này phải chịu đựng. Thái tử Tất đạt đa đã chịu đựng được
hai dòng nước lạnh nóng, cho nên sau này Ngài trở thành đức Phật Thích
ca.
Trong kinh sách, đức Phật dạy rằng: người nào chịu đựng được những sự thuận và nghịch của cuộc đời, mà tâm vẫn bình thường, bình tĩnh thản nhiên, an nhiên tự tại, thì người đó sẽ là một vị Phật trong tương lai. Ðó là ý nghĩa hết sức thâm sâu vi diệu của đạo Phật.
Trong kinh sách, những cảnh thuận và nghịch của
cuộc đời được gọi là: Bát Phong. Bát là tám, phong là ngọn gió. Bát
phong chia làm bốn cặp, mỗi cặp gồm hai cảnh giới đối nghịch, đó là: lợi và suy, hủy và dự, xưng và cơ,
khổ và lạc.
Lợi là những điều thuận lợi, đem lợi lộc, tài lợi đến cho con người.
Suy là suy tàn, suy sụp, đem đến sự thua lỗ, mất mát cho con
người. Cả hai điều này đều làm cho tâm của con người bị động, bất
an.
Hủy là hủy báng, chê bai làm cho tâm con người bị
động.
Dự là danh dự, khen tặng cũng làm cho tâm con người bị động, bất
an.
Kế đến là xưng và cơ, nghĩa là xưng tán, tán tụng,
nói tốt, và cơ bài, bài bác, chỉ trích, nói xấu. Hai ngọn gió này của cuộc
đời cũng làm cho tâm của con người bị động, bất an.
Cuối cùng của bát phong là khổ nạn và lạc thú trên
trần gian. Trên đời này, cảnh khổ quá nhiều, sanh lão bệnh tử là khổ, cầu
mong không được cũng khổ, thương yêu phải chịu chia ly là khổ, thù ghét gặp
nhau cũng khổ, thân thể ốm đau là khổ, tâm loạn động nhiều, bất an cũng
khổ. Còn lạc thú trên đời cũng không ít việc đưa đến phiền não khổ
đau. Chẳng hạn vui thú trò chơi bài bạc đỏ đen thường dẫn tới hoàn cảnh
tiền mất tật mang, vợ bỏ con chê, cửa nhà tan nát, lâm cảnh bần cùng túng
thiếu!
Trong Phật giáo, có nhiều hình thức nghi lễ nhằm mục đích truyền bá giáo lý sâu rộng trong nhân gian, giúp đỡ mọi người xây dựng cuộc sống hiện đời được an lạc và hạnh phúc hơn. Nhân ngày rằm tháng tư âm lịch hằng năm, khắp nơi tưng bừng tổ chức lễ kỷ niệm ngày đức Phật đản sanh, để ghi nhớ công đức của đấng cha lành tìm ra con đường cứu độ chúng sanh được giác ngộ và giải thoát khỏi phiền não khổ đau và sanh tử luân hồi.
Trong phần nghi lễ kỷ niệm ngày đức Phật đản sanh, luôn luôn có tiết mục tắm Phật. Mọi người đều hoan hỷ sắp hàng, tâm niệm Phật, miệng niệm Phật, chờ đến phiên mình tiến lên lễ đài để múc nước tắm cho tôn tượng đức Phật đản sanh. Việc làm này mang nhiều ý nghĩa vi diệu, có ích lợi lớn cho việc tu học, có thể chuyển hóa tâm trạng của con người từ phiền não và khổ đau thành an lạc và hạnh phúc.
Nghi lễ tắm
Phật dựa vào truyền thuyết hai vị Long vương phun hai
dòng nước, một dòng nước lạnh và một dòng nước nóng, tắm cho Thái tử Tất đạt đa
trong ngày đản sanh.
Khi múc gáo nước đầu tiên tắm cho tôn tượng đức
Phật đản sanh nhỏ nhắn, chúng ta tâm nguyện rằng: dù trên đời có gặp thuận cảnh, vừa lòng, tâm của chúng ta vẫn bình tĩnh
thản nhiên.
Khi múc gáo nước thứ hai, tắm cho tôn tượng đức
Phật đản sanh nhỏ nhắn, chúng ta tâm nguyện rằng: dù trên đời có gặp nghịch cảnh, phiền lòng, tâm của chúng ta vẫn bình
tĩnh thản nhiên.
Ðây mới
chính là ý nghĩa sâu xa của nghi lễ tắm Phật vậy.
Giải đáp 3: Bức tranh đó được vẽ
theo truyền thuyết: Ngay khi đản sanh, đức Phật bước đi 7 bước, có 7 đóa hoa
sen đỡ chân, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất, và tuyên bố: "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc
tôn".
7 đóa hoa sen tượng trưng cho thất chúng trong đạo
Phật, đó là: Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Thức xoa ma na ni, Sa di, Sa di ni, Phật tử
nam và Phật tử nữ. Nói chung là toàn thể con người, dù tại gia hay xuất
gia đều có thể áp dụng giáo lý của đạo Phật trong cuộc sống hằng ngày để được
an lạc hạnh phúc và giác ngộ giải thoát.
Muốn được như vậy, con người phải chứng ngộ được bản tâm thanh tịnh, được ví như đóa hoa
sen, gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn, cho nên vẫn sống trong trần đời, mà
chẳng cảm thấy phiền não khổ đau.
Khi thành đạo dưới cội cây bồ đề, đức Phật ngồi
trên thảm cỏ, nhưng trong hình vẽ hay tôn tượng, đức Phật đều ngự trên tòa sen,
tượng trưng cho bản tâm thanh tịnh.
Ngài đã giác ngộ được rằng: tất cả mọi chúng sanh
đều có bản tâm thanh tịnh đó, cho nên
đều có thể trở thành một vị Phật, nếu biết thực hành đúng pháp môn tu tâm dưỡng
tánh.
Bản tâm
thanh tịnh trong kinh sách Phật giáo được gọi với nhiều danh
từ khác nhau, chẳng hạn như là: chân ngã, chân tâm, chân tánh, Phật tâm, Phật
Tánh, bản lai diện mục. Do đó, câu nói: "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc
tôn", có nghĩa là: trên trời dưới đất, hay nói cách khác, trong 6 cõi luân
hồi: trời, người, atula, địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh, chỉ có chân ngã, tức là bản tâm thanh tịnh, là đáng tôn
kính. Người giác ngộ được điều này, sẽ giải thoát được phiền não khổ đau
và sanh tử luân hồi.
Tóm lại, bức tranh vẽ đức Phật đản sanh đi 7 bước
có hoa sen đỡ chân, ngụ ý: con người trải qua lục đạo luân hồi (6 cảnh giới:
thiên, nhơn, atula, địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh) nếu biết tu tập sẽ giác ngộ
giải thoát, đắc đạo thành Phật (bước sen thứ bảy).
Người nào hành động, nói năng, suy nghĩ các điều
phải, điều đúng, điều tốt, tức là tam
nghiệp thanh tịnh, thì tâm nhẹ nhàng, khinh an, đi lên (tay phải chỉ trời).
Người nào hành động, nói năng, suy nghĩ các điều
trái, điều sai, điều xấu, tức là tam nghiệp chưa thanh tịnh, thì tâm nặng nề,
bất an, đi xuống (tay trái chỉ đất).
Và trong lục đạo luân hồi, trải qua sanh lão bệnh
tử, chúng sanh khổ là do chấp ngã; khi giác ngộ lý vô ngã, tức đạt được chân
ngã, hay bản tâm thanh tịnh, tam
nghiệp hằng thanh tịnh, tức đồng Phật vãng tây phương, tức đắc đạo, thành Phật
vậy.
lllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll
Giải đáp 4: Khác nhau giữa Phật
Lịch 2561 và Phật Ðản 2641.
Phật Lịch tính kể từ năm đức Phật nhập diệt, tức 544
năm trước dương lịch.
Muốn tính Phật Lịch, cộng thêm 544 năm vào dương
lịch 2017.
Cho nên năm nay, Phật Lịch là PL.2561.
Cho nên năm nay, Phật Lịch là PL.2561.
Tuổi thọ của đức Phật là 80 tuổi, cho nên Phật Lịch
cộng thêm 80 năm sẽ được Phật Đản. Do đó, năm nay đại lễ Phật Đản lần thứ 2641
(tức là PL.2561 + 80).
KÍNH MỪNG ĐẠI LỄ PHẬT ĐẢN
BƯỚC SEN
THỨ BẢY – VÀO QUẢ VỊ PHẬT
TKN Thích Nữ Chân Liễu
TKN Thích Nữ Chân Liễu
Mùa Phật Đản đối với những người con Phật là mùa hoa
sen nở, thật khó có thể diễn tả hết được sự hỷ lạc bình an một cách vi diệu
trong mùa lễ hội nầy. Hạnh phúc thay, lành thay bậc trí tuệ giác ngộ ra đời. Tại vườn Lâm tỳ ni, thành Ca tỳ la vệ, Thái Tử Tất Đạt Đa
chào đời, giống như bao hài nhi khác, là một con người sống trong thế giới ta
bà, thật sự có cha mẹ, có gia đình và thân bằng quyến thuộc.
Theo truyền thuyết, ngay khi đản sanh Thái Tử Tất Đạt
Đa đi 7 bước, có 7 đóa sen đỡ chân. Truyền thuyết nầy mang nhiều ý nghĩa thâm
sâu và nếu hiểu theo tinh thần học Phật, có rất nhiều lợi ích cho người tu. Một
vị Phật ra đời, hay một con người ở thế gian đều có thể tu giải thoát, đạt đến
địa vị Tôn Quí Tối Thượng. Sự đản sanh của một vị Bồ Tát hy sinh cả cuộc đời vì
lòng đại từ đại bi vô tận và đã hành Bồ Tát đạo nhiều đời nhiều kiếp, kiếp cuối
(nhất sanh bổ xứ) trải qua nhiều khổ hạnh và thiền định để mong tầm đạo giải
thoát cứu khổ chúng sinh.
Kính mời xem nguyên văn
theo LINK:
lllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll
PHƯỚC
ĐỨC VÀ CÔNG ĐỨC
TK Thích Chân Tuệ
Trong
Kinh Ðại Bát Niết Bàn, Ðức Phật có dạy: "Chư ác mạc tác. Chúng thiện phụng
hành. Tự tịnh kỳ ý. Thị chư Phật giáo". Nghĩa là chúng ta không làm tất cả
các việc bất thiện, không làm những việc ác, tránh những việc tổn người hại vật,
cố gắng làm tất cả những việc thiện, những việc ích lợi cho người khác, nhưng
đừng ghi nhớ, đừng chấp chặt vào những việc ích lợi đã làm, thì tâm ý của chúng
ta sẽ được thanh tịnh. Ðó là tu tâm dưỡng tính, đó là điều
cốt yếu chư Phật mười phương ba đời muốn dạy như vậy.
Thí dụ chúng ta đã làm những việc ích lợi cho bất cứ ai mà chấp chặt vào đó thì tâm của chúng ta sẽ bực dọc, bất an khi không được ai khen tặng hoặc không được ai đáp ứng như ý.
Nếu như quên đi những việc thiện đã làm, giúp đỡ người với tâm "thi ân bất cầu báo đáp", thì chúng ta sẽ yên ổn, bình an, tâm của chúng ta sẽ không loạn động, không bực bội khi gặp phải người vô ơn. Trong Kinh Pháp Bảo Ðàn, Lục Tổ Huệ Năng dạy rằng: "Trong tâm khiêm tốn là công. Ngoài hành lễ phép là đức". Hay: "Nội cần khắc niệm chi công. Ngoại hoằng bất tranh chi đức".
Nghĩa là "bên trong" chúng ta phải chuyên cần vận nội lực loại trừ những tâm niệm kiêu ngạo, tật đố, ngã mạn, ganh tị, đố kỵ, khen mình khinh người, để đạt được tâm niệm khiêm tốn, hạ mình, nhún nhường, tùy hỷ công đức.
Ðồng thời, chúng ta cũng phải vận nội công để khắc phục các tạp niệm, để tâm không còn có các vọng tưởng.
Mỗi khi tạp niệm, vọng tưởng khởi lên, chúng ta liền giác ngộ, liền nhận biết và dừng ngay, không tiếp tục theo dòng tâm thức, đi lang thang từ đông sang tây, từ quá khứ đến hiện tại và vị lai, từ chuyện này đến chuyện khác. Như vậy chúng ta có được "công".
Ðiều quan trọng cần biết là: chúng ta đừng sợ có vọng tưởng, tạp niệm khởi lên trong tâm thức. Ai ai cũng có vọng tưởng và tạp niệm.
Chỉ sợ chúng ta không giác ngộ, không nhận biết kịp thời, nên bị vọng tưởng, tạp niệm lôi cuốn, đi lang thang làm khách phong trần, quên mất cố hương, từ bao nhiêu đời, bao nhiêu kiếp.
Khi dong ruổi theo các vọng tưởng, tạp niệm như vậy, tâm của chúng ta sẽ loạn động với thất tình lục dục, tức là quên mất "bản tâm thanh tịnh" sẵn có của chúng ta.
Còn "bên ngoài" chúng ta thực hành lễ phép, cung kính, tôn trọng tất cả mọi người, bởi vì mọi người ai ai cũng có "Chân Tâm Phật Tính" như nhau, mọi người ai ai cũng có ưu điểm để chúng ta học hỏi, noi theo, không phân biệt, không thành kiến, không kỳ thị, không tranh cãi, không hơn thua, không thị phi, không ỷ mình là kẻ trên người trước, kẻ có nhiều công lao, kẻ có nhiều tài năng, kẻ làm được nhiều việc không ai bằng. Như vậy chúng ta được nhiều người thương mến, gần gũi. Như vậy chúng ta có được "đức".
Thí dụ chúng ta đã làm những việc ích lợi cho bất cứ ai mà chấp chặt vào đó thì tâm của chúng ta sẽ bực dọc, bất an khi không được ai khen tặng hoặc không được ai đáp ứng như ý.
Nếu như quên đi những việc thiện đã làm, giúp đỡ người với tâm "thi ân bất cầu báo đáp", thì chúng ta sẽ yên ổn, bình an, tâm của chúng ta sẽ không loạn động, không bực bội khi gặp phải người vô ơn. Trong Kinh Pháp Bảo Ðàn, Lục Tổ Huệ Năng dạy rằng: "Trong tâm khiêm tốn là công. Ngoài hành lễ phép là đức". Hay: "Nội cần khắc niệm chi công. Ngoại hoằng bất tranh chi đức".
Nghĩa là "bên trong" chúng ta phải chuyên cần vận nội lực loại trừ những tâm niệm kiêu ngạo, tật đố, ngã mạn, ganh tị, đố kỵ, khen mình khinh người, để đạt được tâm niệm khiêm tốn, hạ mình, nhún nhường, tùy hỷ công đức.
Ðồng thời, chúng ta cũng phải vận nội công để khắc phục các tạp niệm, để tâm không còn có các vọng tưởng.
Mỗi khi tạp niệm, vọng tưởng khởi lên, chúng ta liền giác ngộ, liền nhận biết và dừng ngay, không tiếp tục theo dòng tâm thức, đi lang thang từ đông sang tây, từ quá khứ đến hiện tại và vị lai, từ chuyện này đến chuyện khác. Như vậy chúng ta có được "công".
Ðiều quan trọng cần biết là: chúng ta đừng sợ có vọng tưởng, tạp niệm khởi lên trong tâm thức. Ai ai cũng có vọng tưởng và tạp niệm.
Chỉ sợ chúng ta không giác ngộ, không nhận biết kịp thời, nên bị vọng tưởng, tạp niệm lôi cuốn, đi lang thang làm khách phong trần, quên mất cố hương, từ bao nhiêu đời, bao nhiêu kiếp.
Khi dong ruổi theo các vọng tưởng, tạp niệm như vậy, tâm của chúng ta sẽ loạn động với thất tình lục dục, tức là quên mất "bản tâm thanh tịnh" sẵn có của chúng ta.
Còn "bên ngoài" chúng ta thực hành lễ phép, cung kính, tôn trọng tất cả mọi người, bởi vì mọi người ai ai cũng có "Chân Tâm Phật Tính" như nhau, mọi người ai ai cũng có ưu điểm để chúng ta học hỏi, noi theo, không phân biệt, không thành kiến, không kỳ thị, không tranh cãi, không hơn thua, không thị phi, không ỷ mình là kẻ trên người trước, kẻ có nhiều công lao, kẻ có nhiều tài năng, kẻ làm được nhiều việc không ai bằng. Như vậy chúng ta được nhiều người thương mến, gần gũi. Như vậy chúng ta có được "đức".
Thêm nữa, người Phật Tử muốn có công đức thì bên trong không có tâm chấp
ngã, tâm chấp pháp, nói chung là tâm cố chấp; bên ngoài hành động luôn luôn
ngay thẳng, bình đẳng, công minh, chính trực.
Hãy phát tâm tìm học kinh điển, biết đúng Chính Pháp mà hành theo, tránh chuyện tu mù, tu mò, để khỏi lạc sang tà giáo, ngoại đạo. Công đức là ở "Pháp Thân", phát sinh trí tuệ bát nhã, không do tu phúc, không do làm những việc phúc thiện mà được.
Chúng ta ngày nay cũng hay lầm lẫn cho rằng lập chùa, giúp chư tăng tu học, bố thí, cúng dường, làm Phật sự, đi chùa lạy Phật là được nhiều công đức và tự hào rằng mình làm vô lượng vô biên công đức, cần phải được tán thán, rồi chờ đến ngày được vãng sinh về cõi tây phương cực lạc quốc của Ðức Phật A Di Ðà!
Trong Kinh A Di Ðà, Ðức Phật dạy rất rõ ràng cõi Tây phương cực lạc là nơi chỉ có các bậc bồ tát "nhứt sinh bổ xứ", tức là các bực "thượng thiện nhơn" sắp thành Phật, những người hiền thiện bậc thượng, gặp gỡ nhau mà thôi.
Những người còn đầy dẫy tham sân si, đầy dẫy nghiệp chướng, đầy dẫy phiền não thì nhứt định không thể nào đạt được cảnh giới đó. Không thể chỉ lấy có một chút ít thiện căn phúc đức làm nhân duyên, để cầu nguyện về cõi cực lạc đó được.
Ví như người đeo nặng qua sông thì phải chìm, không thể nổi được. Chứ không phải Ðức Phật A Di Ðà không có lòng từ bi cứu độ chúng ta.
Chư Phật có tâm đại từ đại bi muốn cứu độ chúng ta, nên chỉ dạy các pháp môn tu học, các phương pháp, để chúng ta noi theo đó mà tự mình tu tập, để tự được cảnh giới an lạc và hạnh phúc hiện đời và vãng sinh mai sau.
Có người quan niệm "đới nghiệp vãng sinh", nghĩa là con người vẫn còn mang nghiệp chướng, nhưng nhờ biết niệm Phật A Di Ðà, nên được Ngài thương xót cho vãng sinh về cõi tây phương cực lạc, rồi tu tiếp sướng hơn.
Ðiều này có vẻ "phe đảng" cũng như quan niệm cứ chấp nhận rước thượng đế vào lòng thì sẽ được thượng đế cho về thiên đàng, hưởng phúc đời đời, không cần biết đó là người như thế nào!
Thực ra, đạo Phật không có dạy như vậy. Nếu thực sự muốn tu cho thành người tốt, thì chúng ta hãy tu ngay ở cõi đời này, đừng hẹn. Còn mang nghiệp chướng nặng nề, tham giận kiêu căng, si mê lầm lạc, nếu về tây phương, chỉ làm nơi đó ô uế mà thôi.
Dù có được về bên đó chăng nữa, không thấy thích hợp, cũng sẽ đòi về trở lại mà thôi!
Sống với những người thế tục, chúng ta mới cần phải tu, mới có cơ hội để tu. Chứ về bên đó gặp toàn người tốt thì đâu cần phải tu nữa.
Cũng như người còn nhiều phiền não quá, nhiều nghiệp chướng quá, dù có được đưa vào chùa ở, mà không quyết tâm trì chí, cũng khó mà tu được, có ngày cũng xuất, nếu không xuất thì sẽ gây biết bao nhiêu việc đáng tiếc cho cảnh thiền môn!
Trong Kinh A Di Ðà, Ðức Phật cũng dạy nếu có thiện nam, thiện nữ nào nghe được danh hiệu Phật A Di Ðà, luôn luôn trì giữ danh hiệu đó trong tâm trí, lúc nào cũng niệm Phật, nhớ nghĩ tới Phật, trong một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày, cho đến bảy ngày, đạt được tâm yên không loạn.
Khi thọ mệnh hết, người như vậy giữ gìn được tâm không điên đảo, tức thời được vãng sinh cõi nước tây phương cực lạc của Ðức Phật A Di Ðà. Tại sao vậy?
Bởi vì khi tâm của người đó luôn luôn niệm Phật, không còn lăng xăng, lộn xộn, không còn loạn động vì các việc đối đãi thị phi, hơn thua, tốt xấu, cho nên cảm ứng được cảnh giới tịnh độ của Ðức Phật A Di Ðà vậy.
Nói cách khác, tâm của người đó thấy mọi sự đúng như thực, thấy mọi việc không còn điên đảo, gọi là "tâm bất điên đảo", cho nên người đó thấy được "Tự Tính Di Ðà, Duy Tâm Tịnh Ðộ".
Nghĩa là nhờ tâm được thanh tịnh, bất loạn động, bất điên đảo, cho nên người đó thấy được "Phật Tính", tức là "Pháp Vô Sinh", không còn sinh tử luân hồi, tức đắc vãng sinh tây phương cực lạc.
Nếu còn nghiệp chướng nặng nề, tham giận kiêu căng, si mê lầm lạc, nghĩa là tâm còn điên đảo, tâm còn loạn động, làm sao vãng sinh được mà mong cầu!
Cõi tây phương cực lạc hay cõi thiên đàng là cảnh giới "bất tùy phân biệt", bình đẳng tuyệt đối, chí công vô tư, làm gì còn chia giai cấp có chín phẩm, ba hạng, thượng trung hạ, như con người tưởng tượng cho thêm lộn xộn và phức tạp! Không thể lấy tâm lượng phàm phu xét cảnh giới bồ tát! Như vậy, cốt tủy của đạo Phật, không phải là van xin cầu nguyện, cúng kiến lễ lạy cho nhiều, mà chính là lúc nào cũng nhớ nghĩ tới hạnh nguyện của chư Phật, nói lời như Phật dạy, hành động như Phật dạy, luôn luôn giữ gìn tâm ý thanh tịnh, bình an, yên tĩnh, không loạn động, không điên đảo.
Ðược như vậy, tam nghiệp hằng thanh tịnh, chúng ta vừa có phúc đức vừa có công đức đầy đủ, phúc tuệ trang nghiêm, tùy tâm mãn nguyện. Kinh sách có câu: "Phúc Tuệ Lưỡng Toàn Phương Tác Phật". Cứu kính của đạo Phật chính là nghĩa đó vậy.
Hãy phát tâm tìm học kinh điển, biết đúng Chính Pháp mà hành theo, tránh chuyện tu mù, tu mò, để khỏi lạc sang tà giáo, ngoại đạo. Công đức là ở "Pháp Thân", phát sinh trí tuệ bát nhã, không do tu phúc, không do làm những việc phúc thiện mà được.
Chúng ta ngày nay cũng hay lầm lẫn cho rằng lập chùa, giúp chư tăng tu học, bố thí, cúng dường, làm Phật sự, đi chùa lạy Phật là được nhiều công đức và tự hào rằng mình làm vô lượng vô biên công đức, cần phải được tán thán, rồi chờ đến ngày được vãng sinh về cõi tây phương cực lạc quốc của Ðức Phật A Di Ðà!
Trong Kinh A Di Ðà, Ðức Phật dạy rất rõ ràng cõi Tây phương cực lạc là nơi chỉ có các bậc bồ tát "nhứt sinh bổ xứ", tức là các bực "thượng thiện nhơn" sắp thành Phật, những người hiền thiện bậc thượng, gặp gỡ nhau mà thôi.
Những người còn đầy dẫy tham sân si, đầy dẫy nghiệp chướng, đầy dẫy phiền não thì nhứt định không thể nào đạt được cảnh giới đó. Không thể chỉ lấy có một chút ít thiện căn phúc đức làm nhân duyên, để cầu nguyện về cõi cực lạc đó được.
Ví như người đeo nặng qua sông thì phải chìm, không thể nổi được. Chứ không phải Ðức Phật A Di Ðà không có lòng từ bi cứu độ chúng ta.
Chư Phật có tâm đại từ đại bi muốn cứu độ chúng ta, nên chỉ dạy các pháp môn tu học, các phương pháp, để chúng ta noi theo đó mà tự mình tu tập, để tự được cảnh giới an lạc và hạnh phúc hiện đời và vãng sinh mai sau.
Có người quan niệm "đới nghiệp vãng sinh", nghĩa là con người vẫn còn mang nghiệp chướng, nhưng nhờ biết niệm Phật A Di Ðà, nên được Ngài thương xót cho vãng sinh về cõi tây phương cực lạc, rồi tu tiếp sướng hơn.
Ðiều này có vẻ "phe đảng" cũng như quan niệm cứ chấp nhận rước thượng đế vào lòng thì sẽ được thượng đế cho về thiên đàng, hưởng phúc đời đời, không cần biết đó là người như thế nào!
Thực ra, đạo Phật không có dạy như vậy. Nếu thực sự muốn tu cho thành người tốt, thì chúng ta hãy tu ngay ở cõi đời này, đừng hẹn. Còn mang nghiệp chướng nặng nề, tham giận kiêu căng, si mê lầm lạc, nếu về tây phương, chỉ làm nơi đó ô uế mà thôi.
Dù có được về bên đó chăng nữa, không thấy thích hợp, cũng sẽ đòi về trở lại mà thôi!
Sống với những người thế tục, chúng ta mới cần phải tu, mới có cơ hội để tu. Chứ về bên đó gặp toàn người tốt thì đâu cần phải tu nữa.
Cũng như người còn nhiều phiền não quá, nhiều nghiệp chướng quá, dù có được đưa vào chùa ở, mà không quyết tâm trì chí, cũng khó mà tu được, có ngày cũng xuất, nếu không xuất thì sẽ gây biết bao nhiêu việc đáng tiếc cho cảnh thiền môn!
Trong Kinh A Di Ðà, Ðức Phật cũng dạy nếu có thiện nam, thiện nữ nào nghe được danh hiệu Phật A Di Ðà, luôn luôn trì giữ danh hiệu đó trong tâm trí, lúc nào cũng niệm Phật, nhớ nghĩ tới Phật, trong một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày, cho đến bảy ngày, đạt được tâm yên không loạn.
Khi thọ mệnh hết, người như vậy giữ gìn được tâm không điên đảo, tức thời được vãng sinh cõi nước tây phương cực lạc của Ðức Phật A Di Ðà. Tại sao vậy?
Bởi vì khi tâm của người đó luôn luôn niệm Phật, không còn lăng xăng, lộn xộn, không còn loạn động vì các việc đối đãi thị phi, hơn thua, tốt xấu, cho nên cảm ứng được cảnh giới tịnh độ của Ðức Phật A Di Ðà vậy.
Nói cách khác, tâm của người đó thấy mọi sự đúng như thực, thấy mọi việc không còn điên đảo, gọi là "tâm bất điên đảo", cho nên người đó thấy được "Tự Tính Di Ðà, Duy Tâm Tịnh Ðộ".
Nghĩa là nhờ tâm được thanh tịnh, bất loạn động, bất điên đảo, cho nên người đó thấy được "Phật Tính", tức là "Pháp Vô Sinh", không còn sinh tử luân hồi, tức đắc vãng sinh tây phương cực lạc.
Nếu còn nghiệp chướng nặng nề, tham giận kiêu căng, si mê lầm lạc, nghĩa là tâm còn điên đảo, tâm còn loạn động, làm sao vãng sinh được mà mong cầu!
Cõi tây phương cực lạc hay cõi thiên đàng là cảnh giới "bất tùy phân biệt", bình đẳng tuyệt đối, chí công vô tư, làm gì còn chia giai cấp có chín phẩm, ba hạng, thượng trung hạ, như con người tưởng tượng cho thêm lộn xộn và phức tạp! Không thể lấy tâm lượng phàm phu xét cảnh giới bồ tát! Như vậy, cốt tủy của đạo Phật, không phải là van xin cầu nguyện, cúng kiến lễ lạy cho nhiều, mà chính là lúc nào cũng nhớ nghĩ tới hạnh nguyện của chư Phật, nói lời như Phật dạy, hành động như Phật dạy, luôn luôn giữ gìn tâm ý thanh tịnh, bình an, yên tĩnh, không loạn động, không điên đảo.
Ðược như vậy, tam nghiệp hằng thanh tịnh, chúng ta vừa có phúc đức vừa có công đức đầy đủ, phúc tuệ trang nghiêm, tùy tâm mãn nguyện. Kinh sách có câu: "Phúc Tuệ Lưỡng Toàn Phương Tác Phật". Cứu kính của đạo Phật chính là nghĩa đó vậy.
Đạo Phật có dạy rằng:
1.
Con người (ngũ uẩn) có 2 phần:
Ngoài xác thân tứ đại
phàm tục (sắc), còn có phần tâm linh (thọ, tưởng, hành, thức).
Phần xác thân (tứ đại)
khi hết phước (tận số) thì chết đi, đem chôn, hay thiêu - không ai đem xác thối
lên trời!
Con người không cần
bận tâm đến cái xác chết, của mình hay của thân nhân, không nên phiền não với
mấy cái hủ tro từ nhà quàn - chưa chắc là tro thiệt từ thân xác của thân nhân
quá vãng. Quan trọng mấy cái vật chất đó, chỉ làm khổ người thân còn sống, phải
đem xác chôn chỗ này, đem tro rãi chỗ kia. Đó chảng qua do tập quán, tín ngưỡng
lâu đời của thế gian, và cũng chính do bản ngã (EGO) của của con người, làm khổ
con người mà thôi.
Cho nên, đạo Phật chủ
trương “Vô Ngã, Vị Tha”.
Ngũ Táng (Địa táng, Điểu Táng, Hỏa Táng, Thủy Táng, và
Thạch Táng). Tốt nhất là hiến xác cho khoa học sau khi chết, hợp tình hợp lý,
hợp tâm nguyện vô ngã vị tha, có lợi ích đôi phần. Người chết thực hành hạnh bố
thí (nội tài). Người sống hưởng thành quả khoa học, thuốc men, giải phẩu qua
ngành y dược. Đừng nghe mấy vị sư Tàu (tào lao) tuyên truyền tâm ích kỷ rằng,
hiến xác thì không được vãng sanh? Kinh điển nào dạy như vậy, ngoài mấy vị sư
tào lao hiện nay?
2.
Tâm Linh lại có 2 phần: thật và giả.
2.1. Phần tâm giả (vọng tâm) là tâm tham lam, giận
dữ, ngu si, mà con người thường sống hàng ngày.
Phần tâm giả này khi
có khi không, khi sanh khi diệt, khi khởi lên khi biến mất. Cho nên con người
thay đổi tâm tính thường xuyên (vô thường) khi đắc thế khi thất bại (lợi/suy),
khi thương khi ghét, khi thích khi chê, khi tán dương khi chửi bới (xưng/ cơ
hay hủy/ dự), khi vui khi buồn (khổ/lạc).
Phần tâm giả (vọng tâm) này lẫy lừng, mạnh mẽ vô cùng, chính là động cơ (nghiệp lực) dẫn dắt con người sống
đời khổ đau, luân hồi kiếp này đến kiếp sau, và muôn kiếp sau nữa.
2.2.
Bởi thế cho nên, cốt
tủy của đạo Phật là phải tìm cho ra (giác
ngộ) phần tâm thật (chân tâm).
Những hình thức cúng
kiến, cầu an cầu siêu, các nghi lễ rườm rà trai đàn bạt độ, trong khắp các
chùa, chỉ là hình thức của một tôn giáo để mọi người tìm đến, cần thiết nhưng
không thật, giả đó.Tham dự xong rồi, con người thông minh phải phát tâm học đạo
.
Khi tâm con người
không còn vọng động, không còn lăng xăng lộn xộn, không còn mong điều này,không
còn muốn điều kia, thì chân tâm (Tâm thật) hiển lộ. Khi chân tâm
hiển lộ, đời sống con người bớt phiền não khổ đau.
Cũng ví như mặt biển
sóng to khi có gió lớn (tâm con người giận dữ khi gặp chuyện bất như ý)nhưng
khi hết sóng to gió lớn, thì mặt biển trở nên thanh bình, phẳng lặng,có thể
trông xa, thấy rộng bốn phương, đến tận chân trời góc biển.
Các tôn tượng của chư
Phật đều có con mắt thứ ba, nằm giữa 2 con mắt thường, thường tượng trưng bằng
chấm đỏ, hay viên ngọc quí. Con mắt thứ ba này gọi là con mắt thông minh trí
tuệ (tuệ nhãn). Tuệ nhãn chỉ có được khi tâm con người không còn vọng động,
không còn những chuyện tham sân si, không còn loạn động với cảnh trần hàng
ngày, duy nhất, tâm chỉ còn trạng thái phẳng lặng, tịch tịnh, gọi là nhất tâm
bất động, hay nhất tâm bất loạn.
Tùy theo tâm con người
dẹp được, bớt được bao nhiêu tham sân si vọng tâm, thì trí sáng chân tâm (hay
tuệ nhãn) hiển lộ bấy nhiêu. Ví như mây đen (vọng tâm, phiền não) tan biến bao
nhiêu, thì mặt trời (tuệ nhãn hay chân tâm) hiển lộ ánh sáng bấy nhiêu. Tất cả
đều do công phu tu tập của mỗi cá nhân, theo từng thời gian ngắn hay dài, mau
hay lâu.
Cho đến khi vọng tâm hoàn
toàn biến mất, chân tâm hoàn toàn hiển lộ, thì con người hoàn toàn giác ngộ và
giải thoát, không còn sanh tử luân hồi, gọi là đắc đạo. Đây chính là cốt tủy
của đạo Phật.
Muốn thành công, đạt
được mục tiêu nầy (đáo bỉ ngạn) con người phải nổ lực hàng ngày, không phải dễ
dàng trong vài tháng, hay vài năm, nhưng cũng không phải không ai đạt được đâu.
Trong lịch sử các nước, nhiều vị chân tu thực học đạt được cảnh giới này, không
phân biệt tại gia hay xuất gia, không cần phải tu ở trong chùa, không phải là
đệ tử của vị nầy hay của môn phái nọ.
Nhưng các vị không ai
nói ra, các vị chỉ tu hành và dẫn dắt người hữu duyên tu hành. Người nào nói
rằng họ đạt được như vậy, như vậy, nhờ pháp này hay pháp kia, toàn là những
người muốn tự tôn làm lãnh tụ, muốn tự đánh bóng để được tôn sùng, gạt gẫm mọi
người, không ngoài mục đích danh và lợi mà thôi.
Những chuyện vu vơ
khác, xin miễn bàn để khỏi bị loạn tâm trong thế giới đảo điên xưa nay.
Tu theo Phật không cần
phải cố chấp thờ lạy Phật hình tướng một cách mê tín, tu mù, với vọng tâm mong
cầu điều nọ điều kia cho riêng mình, gia đình mình, đoàn thể mình, giáo hội
mình, dân tộc mình, tôn giáo mình, không
cần chọn chùa to tượng lớn, không cần theo giáo hội giáo phái nào, không cần
phải là giáo phẩm cao thấp, không cần phải xưng là chính thống hay tiếm danh,
không cần phải xưng là Phật tử hay không là Phật tử, không cần được khen thuần
thành thường hay đi chùa, không cần khoe gõ mõ, tụng kinh bao nhiêu bộ, không
cần hành tam bộ nhất bái, nhất tự nhất bái, không cần phải niệm Phật om trời
vang vang chính điện, không cần vỗ ngực tự xưng đã tu và làm việc Phật sự năm
bảy chục năm, không cần khoe khoang đã xây năm bảy chục cảnh chùa, không cần
khoe có năm bảy chục hay hằng trăm đệ tử, không cần tự hào là danh môn chánh
phái, đệ tử của vị này vị kia, không cần phải quì lụy, van xin thế quyền, giáo
quyền, tìm kiếm chức phẩm danh vị trong đạo cũng như trong đời, không cần tất
cả hình thức nghi lễ rườm rà của một tôn giáo, kể cả Phật giáo !
Tu theo Phật là để giác
ngộ cái khả năng (vô hình tướng) thành một vị chánh đẳng chánh giác và thoát ly
khỏi sanh tử luân hồi. Người nào phát tâm tu cũng được, bất tùy phân
biệt !
TK Thích Chân Tuệ
cutranlacdao@yahoo.com
PHẬT GIÁO VÀ SỰ THỜ CÚNG
Khi thấy Phật tử đến chùa lễ bái, hay những nhà sư
đang kính cẩn nghiêng mình trước đài sen trong khung cảnh trang nghiêm, tịch mịch
đầy trầm hương nghi ngút, chắc hẳn có người hỏi rằng: Phật tử có cầu nguyện hay
không? Họ làm gì khi đến chùa? Và thái độ của người Phật tử ra sao đối với sự
nguyện cầu?
Trước hết chúng ta phải biết cầu nguyện là gì? Đó là một danh từ có nhiều nghĩa. Trong các tôn giáo tin tưởng và thờ phụng Thượng Đế (mà họ tin là đấng tối cao, toàn năng, toàn thiện, toàn tri đã dựng nên thế gian và được coi là Đấng Tạo Hóa hay Thủy Tổ của muôn loài), cầu nguyện có nghĩa là thỉnh cầu ở nơi Ngài một sự chỉ đạo, hộ trì hoặc cầu xin Ngài ban cho sức khỏe, hạnh phúc, thịnh vượng, bình an và đôi khi xin Ngài tha thứ những tội lỗi đã vi phạm.
Chúng ta có thể nói ngay rằng, vì người Phật tử không tin tưởng nơi thần linh hay bất cứ một đấng quyền uy ban phúc giáng họa nào, nên cầu nguyện cũng không có ý nghĩa như trên. Mặt khác, Phật tử tin tưởng ở nghiệp lực theo đó hạnh phúc hay đau khổ đều là kết quả của hành động, lời nói, ý nghĩ mà mỗi cá nhân tạo ra có ý thức hay có chủ ý. Đó là một luật tự động vận hành chứ không do một ai hướng dẫn, sắp đặt hay an bài. Vì tự động vận chuyển theo một luật tắc nhất định nên nó không thể thiên vị, thương tình hay tội nghiệp mà tha thứ cho những ai vi phạm. Cũng theo luật này (nghiệp) tội lỗi không thể được tha thứ bởi một uy lực bên ngoài, mà chỉ được sửa sai bằng tâm hồi đầu hướng thiện. Bởi vì tội lỗi theo Phật giáo không phải gây ra do vi phạm hay bất tuân những quy định của một đấng quyền uy nào, mà chính vì tự mình hành động sai lầm qua thân, khẩu, ý đưa đến ô nhiễm, phiền não và khổ đau cho mình và người.
Như vậy trong Phật giáo không có cầu nguyện theo nghĩa cầu xin được ban ơn, xá tội, vì mỗi người phải chịu trách nhiệm với chính mình chứ không ai khác về những hành động tội, phước, lành, dữ do mình tạo ra. Thế thì người Phật tử làm gì khi đến chùa? Nếu là Phật tử chân chính chắc chắn họ không đến chùa chỉ để cầu nguyện gì đó cho mình.
Chúng ta hãy theo dõi những người Phật tử đến viếng chùa để xem họ hành động như thế nào và ý nghĩa hành động ấy ra sao. Trong Phật giáo không ai buộc Phật tử phải đến chùa vào một ngày nhất định, họ có thể đến lúc nào họ muốn, nhưng phần đông Phật tử đi chùa vào những ngày lễ sám hối, rằm và ba mươi, hoặc những ngày trai giới, vì phần lớn quần chúng thích tập thể hơn là đơn độc. Họ thường mặc áo trắng, lam hay nâu vì đó là những màu sắc tượng trưng cho tinh khiết, giản dị và khiêm nhường. Họ đem cả hương, đèn, trầm và hoa quả, kính cẩn đi vào chánh điện, nơi đó một tượng Phật uy nghi được tôn trí ở chỗ cao trọng nhất và thành kính dâng những lễ vật lên Đức Phật.
Hình tượng tự nó không phải là vật thờ cúng mà chỉ là hình ảnh tượng trưng cho họ dễ tưởng niệm đến Đức Phật. Thực ra dù có hình tượng hay không họ cũng tôn thờ Đức Phật, hình tượng chỉ có tác dụng giúp họ dễ chú ý và định tâm hơn. Vì thế, tuy dùng hình tượng để thờ cúng nhưng người Phật tử không có thái độ như những tín đồ vật tổ giáo, thờ cúng những vật hay những biểu tượng mà họ cho là linh thiêng có thể chứng giám cho những lời cầu của họ. Nên đạo Phật không phải là tôn giáo chủ trương thờ cúng hình tượng như một số tôn giáo khác.
Trước hết chúng ta phải biết cầu nguyện là gì? Đó là một danh từ có nhiều nghĩa. Trong các tôn giáo tin tưởng và thờ phụng Thượng Đế (mà họ tin là đấng tối cao, toàn năng, toàn thiện, toàn tri đã dựng nên thế gian và được coi là Đấng Tạo Hóa hay Thủy Tổ của muôn loài), cầu nguyện có nghĩa là thỉnh cầu ở nơi Ngài một sự chỉ đạo, hộ trì hoặc cầu xin Ngài ban cho sức khỏe, hạnh phúc, thịnh vượng, bình an và đôi khi xin Ngài tha thứ những tội lỗi đã vi phạm.
Chúng ta có thể nói ngay rằng, vì người Phật tử không tin tưởng nơi thần linh hay bất cứ một đấng quyền uy ban phúc giáng họa nào, nên cầu nguyện cũng không có ý nghĩa như trên. Mặt khác, Phật tử tin tưởng ở nghiệp lực theo đó hạnh phúc hay đau khổ đều là kết quả của hành động, lời nói, ý nghĩ mà mỗi cá nhân tạo ra có ý thức hay có chủ ý. Đó là một luật tự động vận hành chứ không do một ai hướng dẫn, sắp đặt hay an bài. Vì tự động vận chuyển theo một luật tắc nhất định nên nó không thể thiên vị, thương tình hay tội nghiệp mà tha thứ cho những ai vi phạm. Cũng theo luật này (nghiệp) tội lỗi không thể được tha thứ bởi một uy lực bên ngoài, mà chỉ được sửa sai bằng tâm hồi đầu hướng thiện. Bởi vì tội lỗi theo Phật giáo không phải gây ra do vi phạm hay bất tuân những quy định của một đấng quyền uy nào, mà chính vì tự mình hành động sai lầm qua thân, khẩu, ý đưa đến ô nhiễm, phiền não và khổ đau cho mình và người.
Như vậy trong Phật giáo không có cầu nguyện theo nghĩa cầu xin được ban ơn, xá tội, vì mỗi người phải chịu trách nhiệm với chính mình chứ không ai khác về những hành động tội, phước, lành, dữ do mình tạo ra. Thế thì người Phật tử làm gì khi đến chùa? Nếu là Phật tử chân chính chắc chắn họ không đến chùa chỉ để cầu nguyện gì đó cho mình.
Chúng ta hãy theo dõi những người Phật tử đến viếng chùa để xem họ hành động như thế nào và ý nghĩa hành động ấy ra sao. Trong Phật giáo không ai buộc Phật tử phải đến chùa vào một ngày nhất định, họ có thể đến lúc nào họ muốn, nhưng phần đông Phật tử đi chùa vào những ngày lễ sám hối, rằm và ba mươi, hoặc những ngày trai giới, vì phần lớn quần chúng thích tập thể hơn là đơn độc. Họ thường mặc áo trắng, lam hay nâu vì đó là những màu sắc tượng trưng cho tinh khiết, giản dị và khiêm nhường. Họ đem cả hương, đèn, trầm và hoa quả, kính cẩn đi vào chánh điện, nơi đó một tượng Phật uy nghi được tôn trí ở chỗ cao trọng nhất và thành kính dâng những lễ vật lên Đức Phật.
Hình tượng tự nó không phải là vật thờ cúng mà chỉ là hình ảnh tượng trưng cho họ dễ tưởng niệm đến Đức Phật. Thực ra dù có hình tượng hay không họ cũng tôn thờ Đức Phật, hình tượng chỉ có tác dụng giúp họ dễ chú ý và định tâm hơn. Vì thế, tuy dùng hình tượng để thờ cúng nhưng người Phật tử không có thái độ như những tín đồ vật tổ giáo, thờ cúng những vật hay những biểu tượng mà họ cho là linh thiêng có thể chứng giám cho những lời cầu của họ. Nên đạo Phật không phải là tôn giáo chủ trương thờ cúng hình tượng như một số tôn giáo khác.
Một điểm đáng chú ý nữa là người Phật tử lễ bái tượng Phật không có nghĩa là họ tin rằng Đức Phật sau khi nhập diệt vẫn còn hiện diện trên thế gian, để thị hiện trong các pho tượng khiến cho các pho tượng này trở nên linh ứng có thể hộ trì cho những người lễ bái hay quở phạt những người bất tôn kính đối với Ngài. Hình tượng chỉ có thể nhắc nhở lại những hình ảnh sống động lúc Đức Phật còn tại thế, như lúc tham thiền nhập định, lúc thành đạo, lúc chuyển pháp luân, lúc nhập diệt v.v. khiến cho người Phật tử có cảm tưởng như Đức Từ Phụ đang hiện diện để sách tấn họ siêng năng tu tập. Cũng vì thế mà việc đắp tượng phải làm thế nào để diễn tả được những đức tính trí tuệ và từ bi... của Đức Phật, nếu không hình tượng có thể làm sai lạc trí tưởng tưởng của người sơ cơ.
Mặc dù Đức Phật đã nhập diệt nhưng đời sống và giáo pháp của Ngài vẫn còn có một ảnh hưởng lớn lao đối với nhân loại ngày nay, ảnh hưởng đó sống động và thực tế đến nỗi người Phật tử có cảm tưởng như Đức Phật còn tại thế, có người muốn biến cảm tưởng đó thành sự thật bằng cách cúng cả vật thực đến Đức Phật mặc dù họ thừa biết rằng Ngài không thọ dụng.
Linh động hóa như vậy rất hữu ích và người Phật tử càng vững tin và tinh tấn trên đường đạo, đồng thời sự thờ cúng càng tăng thêm ấm cúng và trang nghiêm. Đó là một cách để chứng tỏ rằng ảnh hưởng của Đức Phật đối với con người mọi thời vẫn mạnh mẽ không kém thời nguyên thủy.
Theo thông lệ, cúng dường đèn, hương, hoa quả là một hành động tỏ dấu kính trọng tôn thờ hay tri ân chứ thực ra những vật cúng dường ấy tự nó không có giá trị đặc biệt nào. Đi xa hơn những thông lệ ấy, người Phật tử có một thái độ sáng suốt hơn chỉ là thuần hành động thờ cúng. Như khi dâng hoa trước đài sen người Phật tử suy nghĩ đến chân tướng vô thường của vạn hữu qua bài kệ mà họ thường đọc:
Dâng hoa cúng đến Phật đà
Nguyện mau giải thoát sinh, già, khổ đau.
Hoa tươi nhưng sẽ úa sầu.
Tấm thân tứ đại tránh sao điêu tàn.
Bài kệ trên chứng tỏ người Phật tử khi dâng cúng hay tụng niệm không cầu xin được hộ trì hay ban phước, nhưng đến với Đức Phật như người đệ tử kính mến bậc đạo sư và nguyện theo gương Ngài để sớm thoát khỏi khổ ải trầm luân.
Chúng ta nên lưu ý đến sự khác biệt giữa thái độ của một tín đồ thờ thần linh và một người Phật tử khi họ cùng kính cẩn nghiêng mình trước giáo chủ của họ. Trong khi tín đồ thờ thần linh cầu xin được ban phước hay cứu rỗi, nghĩa là đời đời họ muốn làm nô lệ cho thần linh hay thượng đế của họ. Người Phật tử trái lại, kính cẩn tôn thờ Đức Phật chỉ vì Ngài là người đã đi trước, là người hướng đạo, chứ họ không muốn làm nô lệ Ngài. Họ cũng cố gắng để được giải thoát, được chứng ngộ Phật quả như Ngài. Vì vậy tuy tôn kính Đức Phật nhưng người Phật tử vẫn được quyền bình đẳng với Ngài trong lãnh vực giác ngộ.
Chúng ta hãy tạm lấy so sánh giữa chế độ dân chủ ngày nay và chế độ quân chủ xưa kia để làm thí dụ. Trong chế độ quân chủ mọi người dân là con cái hoặc nô lệ của vị đế vương. Họ phải tuân phục mọi phán xét, thưởng phạt của vua chúa, vì thế "Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung". Nhưng trong chế độ dân chủ thật sự, mọi người dân đều có quyền bình đẳng, dù là tổng thống hay thủ tướng cũng là một công dân như bao người khác. Người dân kính trọng vị nguyên thủ quốc gia vì vị này thay thế họ để lãnh đạo, để lo việc chung. Và tất cả mọi người dân đều có thể trở thành nhà lãnh đạo nếu họ có đủ tài, đủ đức và những điều kiện cần thiết để trở thành vị nguyên thủ.
Bình đẳng và dân chủ hơn, Đức Phật dạy rằng: Không nên tôn kính Ngài bằng cách cúng dường lễ bái. Dù cúng dường bằng những trân châu quý báu cũng không phải là cách tôn kính cao thượng. Phải thực hành theo pháp mà Ngài đã chứng ngộ và chỉ bày để sớm được giải thoát và đạt đến quả vị như Ngài.
Thật hiếm có một vị giáo chủ nào lại không muốn được tôn trọng và chỉ muốn học trò sớm ngang hàng với mình. Người Phật tử chân chính hẳn phải biết như vậy để không phụ lòng từ ái của Đức Phật, không cố chấp vào những hình thức lễ bái mà phải tự tu sửa hầu một ngày kia được giải thoát như Ngài.
Tóm lại, tất cả mọi hình thức thờ cúng tưởng niệm của người Phật tử không phải để cầu xin Đức Phật cứu vớt mà chỉ có mục đích tôn kính và tự nguyện noi gương Ngài để hoàn thành sứ mạng tự giác giác tha.
Viên Minh và Trần Minh Tài
LÀM SAO GẶP PHẬT?
TK
Thích-Chân-Tuệ
Qua hình tướng tìm Phật
Qua âm thanh tìm Phật
Làm vậy là sai đường
Làm sao gặp được Phật?
Qua âm thanh tìm Phật
Làm vậy là sai đường
Làm sao gặp được Phật?
Trong mùa Phật Ðản năm nay, nhân dịp làm lễ kỷ niệm Ðức Phật Thích
Ca sinh ra trên thế gian này, để cứu độ chúng sanh, hãy thử suy nghĩ: chúng ta
đã từng gặp Phật chưa? Nếu chưa, chúng ta làm sao gặp Phật? Có phải đợi sau khi
chết rồi, vãng sanh tây phương cực lạc, mới gặp được Phật chăng? Có phải chỉ có
Phật Tử mới gặp được Phật chăng?
Hoặc có phải chăng: tất cả chúng ta có thể gặp Phật, ngay trên thế
gian này, ngay trong cõi đời này, bất luận người đó là Phật Tử, hay không là Phật
Tử, bất luận người đó tại gia hay xuất gia? Dường như ai ai cũng có các thắc mắc
này, vậy chúng ta hãy lần lượt cùng nhau tìm cách trả lời dựa theo giáo lý của
đạo Phật.
Hầu như mọi người Phật Tử đều biết lịch sử Ðức Phật Thích Ca: Ngài
đản sinh ở vườn Lâm Tỳ Ni, được gọi là Thái Tử Tất Ðạt Ða, con của Vua Tịnh Phạn
và Hoàng Hậu Ma Gia, trị vì vương quốc Ca Tỳ La Vệ, thuộc nước Ấn Ðộ bây giờ.
Ngài lớn lên, cưới vợ, sinh con, cũng như bao nhiêu con người khác trên thế
gian. Rồi nhân những chuyến ra khỏi hoàng cung, nhận thấy các cảnh: sanh, lão,
bệnh, tử, của kiếp con người, cho nên Ngài quyết tâm xuất gia tu hành, tìm đường
giải thoát và thành đạo dưới cội bồ đề. Sau đó, Ngài chuyển pháp luân, thuyết
pháp cứu độ chúng sanh trong 50 năm, cuối cùng nhập niết bàn ở vườn Ta La. Như
vậy, Ðức Phật Thích Ca đã nhập niết bàn, chúng ta đi tìm Phật ở đâu, làm sao
chúng ta gặp được Phật?
Thực ra, chúng ta chẳng cần đi tìm Phật ở đâu xa, chẳng cần phải
qua Ấn Ðộ, hay vào chùa mới gặp Phật. Phật luôn luôn ở trong cuộc đời, ngay
trên thế gian này, hiện hữu khắp nơi, nhưng chúng ta không thấy, vì chúng ta chỉ
nhìn đời bằng đôi mắt thịt, mà quên xử dụng con mắt trí tuệ, để quan sát những
gì tiềm ẩn bên trong, hoặc ý nghĩa của những việc làm.
Nơi các tôn tượng chư Phật, con mắt trí tuệ được tượng trưng bởi
viên ngọc quí ở giữa chặn mày, luôn luôn chiếu sáng, mang ý nghĩa: tuệ đăng thường
chiếu, tức là ngọn đèn trí tuệ thường chiếu sáng, còn đôi mắt thịt, luôn luôn
khép lại, không duyên theo cảnh trần. Tuệ đăng thường chiếu nghĩa là con người
sống luôn luôn tỉnh thức, không bị mê mờ, không bị dục lạc thế gian lôi cuốn, sống
trong thế gian, nhưng không phiền lụy, cũng chẳng khổ đau. Chúng ta có thể tìm
thấy Phật qua sự sống trong tất cả mọi loài chúng sanh. Sự sống đó bàng bạc
trong khắp không gian và thời gian, không hạn hẹp trong trăm năm của một kiếp
con người.
Xưa kia, khi còn ở trong nước, đi ngang qua một
địa phương, có người tự hỏi tại sao có quá nhiều nhà thờ, khoảng vài cây số lại
có một nhà thờ trong khi dân chúng nghèo khổ?
Bây giờ thì chùa chiền cũng mọc lên rất nhiều,
không kém gì các nhà thờ xưa kia, mà có vẻ đồ sộ hơn, còn dân chúng nghèo thì vẫn
nghèo.
Cớ sao các vị tu sĩ không nhớ lại là khi đi
tu, trong tâm chỉ xin Đức Chúa cho được hằng ngày đủ dùng, Đức Phật cũng dạy
con người phải biết tri túc để sống đời an vui hạnh phúc.
Tri túc chi nhơn, tuy ngọa địa thượng,
du vi an lạc.
Nghĩa là: Người nào biết đủ, tuy nằm trên đất,
cũng thấy yên vui.
Khi đủ sống rồi thì người tu phải làm gì để
giúp đỡ người nghèo khổ,
người cầu học chánh pháp, người muốn giác ngộ
và giải thoát.
Như thế mới thể hiện được lời dạy của các Đấng
Tối Cao về lòng bác ái, tâm từ bi, thương người như thể thương thân.
Ngày xưa Đức Phật, đã từ bỏ ngôi báu, cung
vàng điện ngọc, với một bát,
một cà sa, đi từng nhà này qua nhà khác để khất
thực: «Nhất bát thiên gia phạn. Cô thân vạn lý du»
(Một bát ngàn nhà xin cơm. Đơn thân muôn dặm
độc hành).
Đồng thời Ngài cũng bố thí pháp để cứu độ chúng sanh.
Đồng thời Ngài cũng bố thí pháp để cứu độ chúng sanh.
Đây chính là điểm quan trọng nhất mà các tu sĩ
nhất định nên làm, phải làm.
Hình ảnh Đức Phật đi khất thực như thế đã cho
chúng ta bài pháp thâm thúy nơi thân giáo của Ngài.
Vài người chưa kịp hiểu ý nghĩa cao thượng về
pháp khất thực đã vội có tư tưởng và lời nói không hay.
Mỗi tu sĩ Phật giáo, nếu có cái nhìn sâu sắc,
thì chính mỗi vị là một ngôi chùa di động
vì trong họ có đủ Tam bảo Phật, Pháp, Tăng.
Phật chính là tâm sáng suốt.
Pháp chính là tâm chân chánh.
Tăng chính là tâm thanh tịnh.
Ba tâm đó nói chung mọi người đều có - không
phân biệt tôn giáo - người tu sĩ cũng như người cư sĩ đều có.
Họ chỉ cần tu tập, xây dựng vững chắc ngôi
chùa trong bản thân thì ngôi chùa bên ngoài cũng có cơ hội hình thành.
Nơi đâu cũng là đạo tràng, cũng
là thiên đàng, cũng là niết bàn.
Ngôi chùa bên ngoài chỉ là phương tiện để hoằng
pháp, chứ không phải là cứu cánh của người tu.
Người tu - dù là tu sĩ hay cư sĩ - đi đến
chùa là để học hiểu chánh pháp,
đặng áp dụng trong đời sống thức tế hàng
ngày,
chứ không phải để cầu nguyện suông được vãng
sanh cực lạc,
mà chẳng tìm học và áp dụng những điều đức Phật
dạy.
Do đó, người tu sĩ nhận của cúng dường, bố
thí từ nơi bá tánh,
phải luôn luôn nhớ bổn phận tự tu, tự độ
chính bản thân
và giúp mọi người biết cách tu đúng chánh
pháp, gọi là độ người, độ tha nhân.
Người xưa có nói tu thân rồi mới tề gia.
Người xưa có nói tu thân rồi mới tề gia.
Một tu sĩ tự độ rồi mới độ tha, phải là một vị
thầy sáng suốt, chân chánh, thanh tịnh, phải là một vị minh sư, mới có thể đem
đạo vào đời, giúp đời giảm thiểu phiền não khổ đau, gieo tình thương, an lạc, hạnh
phúc
vào vườn tâm mọi giới: «Minh sư hưng đạo».
Tu sĩ còn là người lèo lái con thuyền bát
nhã, cứu người thoát khổ, độ người thoát khỏi trầm luân, đưa đến bờ giác!
Người tu - tại gia hay xuất gia - cần nắm vững
chánh pháp, để tự độ thân và độ tha nhân. không lầm tà pháp, không chọn tà sư
và không lạc vào tà đạo.
LUẬT NHÂN QUẢ
TK Thích Chân Tuệ
Trong
đời sống hằng ngày, chúng ta có rất nhiều thắc mắc, có nhiều vấn đề cần phải
giải quyết, chẳng hạn như là: Qua sự việc chính quyền Taliban, xứ A Phú Hãn
(Afghanistan), phá hủy các tượng Phật cổ ngàn năm, có người thắc mắc: Phật giáo
chưa từng đi xâm chiếm bất cứ nước nào, nhưng ở điểm này sẽ hiểu thế nào về:
"Nhân nào quả nấy"? Phật giáo đại thừa phải chăng không thiết
thực, nên dễ bị những nước khác xâm chiếm, bởi vì các nước Hồi giáo hiện nay là
của Phật giáo đại thừa trước kia. Và tình trạng của Phật giáo Tây Tạng
ngày nay?
* * *
Trước
hết, chúng ta chia câu hỏi trên đây thành bốn phần, để tìm hiểu được rõ ràng:
1) Luật nhân quả.
1) Luật nhân quả.
2)
Vấn đề chính quyền Hồi giáo Taliban phá hủy các tượng Phật cổ.
3)
Phật giáo đại thừa và tiểu thừa.
4)
Phật giáo Tây Tạng.
1)
Luật nhân quả. Trước hết, chúng ta cần tìm hiểu về luật nhân quả.
Luật nhân quả thường được tóm gọn bằng bốn chữ: "Nhân nào quả
nấy".
Thực
đúng như vậy, trên phương diện khoa học thực nghiệm, nếu gieo hạt nhân cam, sau
một thời gian, chúng ta có được cây cam và sẽ gặt được quả cam, cộng thêm với
một số điều kiện cần thiết, thường được gọi là trợ duyên, chẳng hạn như: phân
bón, ánh nắng, nước tưới, thuốc trừ sâu, công chăm sóc. Không thể nào có
chuyện gieo nhân cam ngọt lại gặt quả chanh chua, hoặc ngược lại.
Luật
nhân quả được áp dụng trong ba thời: quá khứ, hiện tại, vị lai. Có khi
gieo nhân trong quá khứ, hiện tại mới gặt quả. Có khi gieo nhân trong
hiện tại, gặt quả ngay trong hiện tại. Có những gieo nhân trong hiện tại,
vị lai mới gặt quả. Thí dụ như: gieo nhân tu tập lâu dài, một cách kiên
tâm trì chí, mới gặt được kết quả cuộc sống an lạc hạnh phúc, cao hơn nữa, đạt
được giác ngộ và giải thoát. Trái lại, sinh sự sự sinh, đánh người người
đánh, chơi dao đứt tay, chơi lửa phỏng lửa, ngay trong hiện tại, cho nên thường
được gọi là quả báo nhãn tiền.
Tuy
nhiên, có người gieo nhân thiện lành, trong hiện tại, như là: tụng kinh, niệm
Phật, đi chùa, bố thí, cứu người, giúp đời, ăn hiền, ở lành, hiếu thảo, nhưng
thường gặp phải những quả chẳng lành, trong hiện tại, như là: xui xẻo, tai nạn,
thất bại, con cái hư hỏng, gia đạo bất hòa, cửa nhà suy sụp.
Trái
lại, có người gieo nhân xấu ác, chẳng lành, trong hiện tại, như là: trộm cắp,
gian giảo, lừa đảo, ngậm máu phun người, vu khống cáo gian, sang đoạt của cải,
tâm địa hiểm độc, đâm bị thóc thọc bị gạo, làm nhiều việc thất nhơn ác đức,
nhưng lại gặp nhiều quả tốt lành, trong hiện tại, như là: giàu sang, quyền thế,
ăn nên làm ra, sự nghiệp phát triển, thế lực ngày càng lớn lao, địa vị ngày
càng vững mạnh.
Trường
hợp trên, gieo nhân lành trong hiện tại, nhưng quả lành chưa kịp trổ ngay hiện
tại. Trong khi đó, gieo nhân xấu ác, chẳng lành, trong quá khứ, hiện tại
đang trổ quả báo. Thêm nữa, nhiều người tu mà không học, chỉ biết tụng
kinh, niệm Phật, làm lành, nhưng không thấu hiểu giáo lý một cách rõ ràng, để
áp dụng trong cuộc sống hằng ngày.
Nhiều
khi làm được một vài việc lành, như là: giúp người một việc, trích dẫn một bài
kinh, tìm giúp một cuốn sách, rồi đâm ra kênh kiệu, ngã mạn, tưởng rằng đã làm
phước nhiều rồi, đòi được đền đáp, đòi được trân trọng! Tụng kinh niệm
Phật, mà không biết đối xử từ bi hỷ xả, không áp dụng giáo lý trong cuộc sống
hằng ngày, thì trách sao gia đạo chẳng bất hòa, con cái chẳng hư hỏng, người
khác chẳng trân trọng!
Trường
hợp sau, gieo nhân xấu ác, chẳng lành, trong hiện tại, nhưng quả báo chưa kịp
trổ ngay hiện tại. Trong khi đó, gieo nhân lành trong quá khứ, hiện tại
đang trổ quả lành. Tuy nhiên, khi những quả lành chấm dứt, nghĩa là phước
báo hết, con người phải đền trả những nghiệp báo xấu ác, chẳng lành, đã tạo
hiện tại hay trước đây.
Do
đó, chúng ta không ngạc nhiên khi đọc tin tức về một nhà triệu phú bị khánh tận
tài sản, vợ con phản phúc, bạn bè trở mặt, đến nỗi phải quyên sinh, tự vẫn để
thoát nợ đời! Hoặc tin tức về các nhà lãnh đạo chính trị, hay tôn giáo,
bị lật đổ, bị đão chính, bị ám sát, bị hành hình thê thảm, chết không chỗ chôn
thây! Hoặc tin tức về các công nương, quận chúa, hoàng tử gặp tai nạn
trên xa lộ, chết chẳng toàn thây, gặp tai nạn trên biển cả, chết mất luôn xác!
Trong
Kinh A Hàm, Ðức Phật có dạy:
·
Dù cho lên non, xuống biển vào hang,
·
nghiệp báo đã mang, vẫn theo con người,
·
như hình với bóng, không ai có thể,
·
tránh được thoát được.
2)
Vấn đề chính quyền Hồi giáo Taliban phá hủy các tượng Phật cổ. Hiểu rõ
luật nhân quả như trên, chúng ta biết ngay rằng: việc chính quyền Hồi giáo
Taliban xứ Afghanistan hiện tại (năm 2001) cho phá hủy các tượng Phật cổ, không
phải là "quả" của nhân thiện lành "chưa từng xâm chiếm bất cứ
nước nào" trước đây.
Chúng
ta nên thấu hiểu rằng: Luật nhân quả luôn luôn đúng trong ba thời, không hề sai
chạy, không có ngoại lệ. Chỉ hiềm một nỗi, chúng ta chưa đắc Phật nhãn,
để thấy rõ tường tận, như người đứng trên lầu cao nhìn xuống ngã ba, ngã tư
đường, mà thôi! Cho nên, chúng ta không nên khẳng định: đâu là nhân, đâu
là quả, trong trường hợp này!
Chỉ
có những tượng Phật trang nghiêm, điêu khắc khéo, nét thanh tịnh, đáng được
chiêm ngưỡng, thờ phượng. Các tượng Phật hay tranh Phật bị hư hỏng, bị
mối mọt gặm nhấm, mất trang nghiêm, cần nên hủy bỏ. Có nhiều Phật Tử
không nắm vững giáo lý, không dám hủy bỏ đi, cứ thắc mắc, động tâm mãi về
chuyện này!
Thêm nữa, chúng ta nên biết mọi sự sự vật vật trên thế gian này có hình tướng, chẳng hạn như là: cái bàn, cái nhà, tượng Phật, quả đất, đều trải qua bốn giai đoạn: thành, trụ, hoại, không. Nghĩa là: tượng Phật cổ thành hình do công sức xây dựng của con người có tâm thành trước đây, trụ thế được hai ngàn năm nay, đã tới thời kỳ bị hư hoại với thời gian, với nắng mưa, và giờ đây trở về hư không, cũng do công sức phá hoại của con người. Thành trụ hoại không, còn được biết là: sinh, trụ, dị, diệt. Thế thôi! Chúng ta không nên bận tâm, không nên động tâm về những chuyện xảy ra trên thế gian như vậy.
Thêm nữa, chúng ta nên biết mọi sự sự vật vật trên thế gian này có hình tướng, chẳng hạn như là: cái bàn, cái nhà, tượng Phật, quả đất, đều trải qua bốn giai đoạn: thành, trụ, hoại, không. Nghĩa là: tượng Phật cổ thành hình do công sức xây dựng của con người có tâm thành trước đây, trụ thế được hai ngàn năm nay, đã tới thời kỳ bị hư hoại với thời gian, với nắng mưa, và giờ đây trở về hư không, cũng do công sức phá hoại của con người. Thành trụ hoại không, còn được biết là: sinh, trụ, dị, diệt. Thế thôi! Chúng ta không nên bận tâm, không nên động tâm về những chuyện xảy ra trên thế gian như vậy.
Trong
Kinh Kim Cang, Ðức Phật có dạy:
·
Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng.
Nghĩa
là: Phàm ở đời, cái gì có hình tướng thảy đều là hư vọng, là vô thường, không
tồn tại vĩnh viễn, chính là nghĩa như vậy. Ngay xác thân tứ đại của Ðức
Phật Thích Ca cũng phải đem đi thiêu, sau khi nhập diệt. Các đệ tử đã
chuyển niềm tiếc thương ngậm ngùi thành sức mạnh, đem chánh pháp truyền bá đến
muôn người, thuộc muôn thế hệ sau, cho được lợi ích không thể nghĩ bàn.
Nhờ đó, chánh pháp được lưu truyền mãi mãi cho đến ngày nay và ngàn sau.
Chúng ta nên biết rằng: Con người chỉ có khả năng hủy diệt tượng Phật, dù bằng vàng, bằng đá, bằng đồng, hay bất cứ vật liệu nào, chứ chẳng ai tiêu diệt được Phật Tánh. Tại sao như vậy? Bởi vì, Phật Tánh không có hình tướng và mọi người đều có Phật Tánh một cách bình đẳng.
Chúng ta nên biết rằng: Con người chỉ có khả năng hủy diệt tượng Phật, dù bằng vàng, bằng đá, bằng đồng, hay bất cứ vật liệu nào, chứ chẳng ai tiêu diệt được Phật Tánh. Tại sao như vậy? Bởi vì, Phật Tánh không có hình tướng và mọi người đều có Phật Tánh một cách bình đẳng.
Trong
Kinh Hoa Nghiêm, Ðức Phật có dạy:
·
Nhất thiết chúng sanh, giai hữu Phật Tánh.
Nghĩa
là: Tất cả chúng sanh đều có Phật Tánh.
3) Phật giáo đại thừa và tiểu thừa. Ðây chỉ là cách gọi các tông phái Phật giáo truyền đi từ các miền của xứ Ấn Ðộ, qua các xứ sở lân cận ở châu Á, còn được gọi là: Bắc tông và Nam tông.
3) Phật giáo đại thừa và tiểu thừa. Ðây chỉ là cách gọi các tông phái Phật giáo truyền đi từ các miền của xứ Ấn Ðộ, qua các xứ sở lân cận ở châu Á, còn được gọi là: Bắc tông và Nam tông.
Phật
giáo đại thừa, còn được gọi là Phật giáo phát triển, bởi vì, du nhập vào bất cứ
quốc độ nào, Phật giáo phát triển một cách hòa bình, hội nhập với văn hóa địa
phương, không có sự tranh chấp hay kỳ thị, thường biến thành Phật giáo của xứ
sở đó. Chúng ta thấy có Phật giáo Việt Nam, Phật giáo Trung Hoa, Phật
giáo Nhật Bản, Phật giáo Triều Tiên, Phật giáo Tây Tạng, Phật giáo Ấn Ðộ, đều
có bản sắc riêng biệt.
Phật
giáo tiểu thừa, còn được gọi là Phật giáo nguyên thủy, chủ trương giữ nguyên
cách hành đạo thời Ðức Phật còn tại thế, cũng truyền bá một cách bình yên, an
lạc, như là: Phật giáo Tích Lan, Phật giáo Thái Lan, Phật giáo Miến Ðiện, Phật
giáo Ai Lao, Phật giáo Cao Miên.
Dù
là tông phái nào, Bắc tông hay Nam tông, nói chung Phật giáo đều có tính thiết
thực, thực tế, có thể áp dụng được trong cuộc sống hằng ngày, dù là Phật Tử hay
không phải là Phật Tử, để thăng hoa cuộc sống, chuyển hóa tâm linh, biến bất an
thành an lạc, biến khổ đau thành hạnh phúc.
Phật
giáo chủ trương con người phải tự cất bước trên con đường tu tâm dưỡng tánh,
không có bất cứ ai làm thay mình được. "Ai ăn nấy no, ai tu nấy
chứng", đó là sự thực công bằng tuyệt đối. Khi thực hành đến mức độ
rốt ráo, ba la mật, chúng ta sẽ thấy mọi sự sự việc việc đều dung thông vô
ngại, lý sự viên dung.
Ðức
Phật chỉ cứu độ con người hữu duyên, tức là con người chịu tu học theo đúng
chánh pháp, chứ không cầu nguyện van xin, để được Ðức Phật ban ơn cứu
giúp. Tại sao như vậy? Bởi vì, van xin cầu nguyện thực sự có được
gì đâu, chỉ làm cho con người được an tâm, bình an trong tâm hồn, trong khoảng
thời gian bị nhiệt não mà thôi.
Trong
Kinh Pháp Cú, Ðức Phật có dạy:
·
Hãy tự thắp đuốc, tự mình bước đi.
·
Thắp sáng trí tuệ, ngọn đuốc chánh pháp.
Nghĩa
là mọi người phải tìm hiểu, học hỏi chánh pháp, đem ngọn đuốc trí tuệ của mình
mồi với ngọn đuốc trí tuệ Phật, bằng cách nghe giảng giáo lý, nghiên tầm kinh
điển, rồi tự suy nghĩ, ứng dụng trong cuộc sống hằng ngày, giữ gìn giới luật,
tu tập thiền định, phát triển trí tuệ bát nhã. Nhờ giữ gìn giới luật nên
tâm trí được thanh tịnh và trí tuệ bát nhã khai mở.
Trong
Phật giáo, đó là: tam vô lậu học "Giới Ðịnh Tuệ" và tam tuệ học
"Văn Tư Tu", có khả năng đưa chúng ta đến chỗ giác ngộ và giải
thoát. Ðó chính là tính thiết thực của Phật giáo vậy.
4)
Phật giáo Tây Tạng. Còn việc các nước trước đây theo Phật giáo, nay biến
thành Hồi giáo, mọi việc thay đổi, đổi thay chỉ chứng minh cuộc đời là vô
thường, đúng lời Ðức Phật đã dạy trong kinh điển mà thôi. Riêng Phật giáo Tây
Tạng gặp nạn phải lưu vong, đó là việc bất hạnh. Tuy nhiên, trong cái bất hạnh
có cái hạnh lành, trong cái rủi có cái may, trong cái xui có cái hên, đó là:
Phật giáo Tây Tạng hiện nay phát triển mạnh tại khắp nơi trên thế giới.
Cũng
như người Việt chúng ta sống khắp nơi trên thế giới hiện nay, không có gì gọi
là: tủi nhục hay không tủi nhục. Tủi nhục hay an lạc không hẳn tùy thuộc nơi
chốn, hay hoàn cảnh, mà tùy thuộc vào tâm thức của con người. Tâm còn
nhiều loạn động, con người còn thấy tủi nhục và đau khổ. Tâm được bình
an, thiền định, con người cảm thấy an lạc tự tại.
Trong
kinh sách có câu: "Tùy theo chỗ ở thường an lạc".
Chúng
ta thoát ra khỏi cảnh giới nhị biên đó, sẽ tìm được hướng tích cực, đó là: đem
nhân lực, tài lực, vật lực, trí lực, từ mọi nguồn trên khắp thế giới, về phục
vụ quê hương tổ quốc, khi hội đủ nhân duyên thuận tiện. Ðó là cách chúng
ta chuyển hóa nhân chẳng lành thành quả lành.
Trong
Kinh Hoa Nghiêm Ðức Phật có dạy:
·
Nhất thiết duy tâm tạo.
Nghĩa
là: cảnh giới thiên đàng niết bàn hay địa ngục trần gian, tất cả đều tùy thuộc
vào tâm trạng của con người, do chính tâm của con người tạo ra. Chẳng hạn
như là: muốn được tâm Phật thì tự mình phải bỏ tâm ma. Muốn được yên ổn
thì tự mình phải bỏ tâm hay gây sự. Bởi vì, sách có câu: "sinh sự
thì sự sinh". Do đó, đạo Phật mới có tam tạng kinh điển, chỉ dạy tám
muôn bốn ngàn pháp môn, để giúp đỡ con người được giác ngộ và giải thoát.
Tóm
lại, các điểm sau đây chính là tính cách thiết thực của đạo Phật, mà Ðức Phật
dạy trong các kinh điển:
·
Hãy chuyển hóa phiền não khổ đau thành an lạc hạnh phúc.
·
Hãy chuyển hóa thế gian ta bà khổ thành cõi tự tại niết bàn.
·
Hãy chuyển hóa phàm phu vô minh thành bực giác ngộ,
·
chánh đẳng, chánh giác. _
CHUYỆN TU HÀNH
- Thưa Thầy, tôi có nghe câu nói: Thứ nhứt thì tu tại gia.
Thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa.
Vô chùa tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền, thọ bát,
bái sám, thì đúng là tu rồi, dễ hiểu quá. Còn tu tại gia, tu tại chợ là làm
sao, thế nào, kính xin Thầy từ bi chỉ dạy cho. Cám ơn Thầy trước.
- Thông thường, ai cũng nghĩ vô chùa mới gọi là tu
thì quả thật không sai. Nhưng chưa hẳn hoàn toàn đúng.
Người thường đi chùa, hoặc cạo tóc ở luôn trong
chùa, nếu không tu sửa tâm tánh, vẫn tham lam, vẫn sân hận, vẫn si mê, có khi
còn làm phách, dè bĩu, hay khinh khi người khác không biết tu như mình, rủa xả,
mắng nhiếc người khác đọa địa ngục, phê phán không căn cứ, phỉ báng không tiếc
lời, thích ăn trên ngồi trước, giành miếng ngon, lựa chỗ tốt, thì không gọi là
tu được. Có chăng đó chỉ là hình tướng người tu, dù tại gia hay xuất gia, gọi
là tu tướng mà thôi.
Còn tu tại gia, tu tại chợ thì rộng rãi hơn, chiếm
toàn bộ thời gian trong một ngày, dù là người tại gia hay xuất gia. Lúc nào
cũng tự xem xét, hôm nay mình có làm tổn thương ai qua hành động, lời nói và
trong tư tưởng. Chẳng hạn như tại
chợ, mình có để xe nghinh ngang giữa đường, bất kể người khác có đi qua được
hay không. Chẳng hạn như tại gia, mình có ngồi coi TV chờ ông chồng (hay bà vợ)
mời ăn cơm, ăn xong coi TV tiếp, không phụ giúp làm cơm, không phụ giúp dọn
bàn, dọn dẹp, rửa chén bát, có khi lại ỷ mình là người làm ra tiền, nuôi cả
nhà!
Tóm lại, tu tâm dưỡng tánh, hôm nay mình tốt hơn
chính mình hôm qua, đó mới chính thực là tu.[]
CHUYỆN TRONG ĐỜI
- Thế nào gọi
là tu?
- Trong cuộc sống hàng ngày, khi xài điện, nước,
giấy, nên tiết kiệm, không lãng phí, dù tại gia, tại chợ hay tại chùa. Như thế
gọi là tu đó.
CHUYỆN TRONG CHÙA
- Chị hai! Thầy nói em bị vong ma nhập, nó cứ xúi
em nhẩy xuống sông hoài. Em thì không biết lội chết chắc?!
- Khi nào con ma đó có xúi em nữa, em nghe lời chị
nói với nó vậy nè: Mầy nhẩy đi, tao không nhẩy. Vậy chết chắc là nó, không phải
là em.
- Ừ có lý hén!
CHUYỆN TRONG NHÀ
- Anh ơi, anh đem đồ đi chợ vào nhà, anh làm một
mình hết nha!
- Còn em, sao không phụ anh chứ?...
- Em bịnh!
- Bịnh gì lẹ vậy, vừa rồi em ăn một lúc hai tô phở
mà!
- Bịnh làm biếng được không thì bảo nào?
CHUYỆN TRONG CHÙA
- Thầy nói anh nghiệp chướng nặng nề, không chịu đi
chùa, lo đi làm kiếm tiền, coi chừng bị đọa đọa… đó!
- Em nói với Thầy dùm anh, ngày mai anh không đi
làm nữa, anh sẽ đi chùa, nhưng không có tiền giúp chùa gây quỹ nữa, được không?
CHUYỆN TRONG ĐỜI
- Sách có câu: “Hoa hồng là rác, rác sẽ là hoa
hồng”.
Câu đó đúng lắm! Nhớ hồi mới quen em, anh tặng “hoa
hồng” cho em, quay lưng đi em cho vào thùng rác ngay. Nếu anh khôn một chút,
tặng kim cương thì tốt rồi!
CHUYỆN TRONG CHÙA
- Thưa Thầy chồng con làm Bác sĩ lương hằng tháng
rất cao, nhưng có điều là phải dùng những con thú như chim, chuột, thỏ, để thí
nghiệm, như vậy có tội không vậy?
- Không được rồi! Nguy thay! Nguy thay! Tội lỗi!
Tội lỗi! Bảo ông ấy bỏ “Job” liền lập tức đi nhá!
- Không được rồi! Nguy thay! Nguy thay! Thế thì cả
nhà con chết đói rồi! Thầy ơi cứu con với! []
CHUYỆN
TRONG CHÙA
- Thưa Thầy, tôi nghe nói hùn phước in kinh sách ấn
tống, phát hành băng giảng, được rất nhiều công đức thù thắng, cho nên có nhiều
cá nhân cũng như tổ chức, chùa viện quyên góp thực hiện. Tuy nhiên, tôi thấy
trong nhiều chùa, số lượng kinh sách, băng dĩa phát không, tràn ngập, bỏ bừa
bãi, không trang nghiêm. Trong đó có quá nhiều kinh sách, băng giảng không có
nội dung tốt, thậm chí mê tín dị đoan, sai lạc giáo lý, chẳng những không lợi
ích gì, còn góp sức truyền bá tà pháp. Kính mong quí Thầy cho biết tôn ý về vấn
đề này.
Đáp:
- Các dạng bố thí gồm có: tài thí, pháp thí và vô
úy thí. Tài thí có: ngoại tài (tiền bạc, của cải), và nội tài (các bộ phận của
cơ thể). Pháp thí là bố thí chánh pháp, giúp người hiểu rõ chánh đạo, chánh
kiến, chánh tín, sự thật của cuộc đời, để sống đời được an lạc và hạnh phúc,
hơn nữa, đạt được giác ngộ và giải thoát. Và vô úy thí là giúp người vượt qua
cơn sợ hãi, sợ chết, sợ đủ mọi thứ, ổn định được tâm bất an.
Trong các dạng bố thí vừa kể, bố thí pháp thù thắng
nhất. Bởi lẽ, chánh pháp giúp đỡ con người trong kiếp này được khai mở trí tuệ,
tránh tà pháp và mê tín dị đoan, biết tu tâm dưỡng tánh theo đúng chánh đạo,
tránh tà đạo, nhận rõ tà sư và tà pháp. Cao cả nhất là chánh pháp giúp con
người thoát ly được phiền não khổ đau trong sanh tử luân hồi.
Đúng như quí Đạo Hữu nhận xét, hiện nay tình trạng ấn tống kinh sách, băng dĩa rất được hưởng ứng, bởi nhiều lý do. Lý do trước hết là nhiều người hiểu rằng bố thí pháp (hùn phước ấn tống kinh sách, băng thuyết pháp) có công đức và phước đức trên tất cả các dạng bố thí khác. Hoặc, có nhiều người cầu khẩn, van xin, khấn vái điều gì đó cho gia đình hay cho công việc làm ăn, buôn bán, bèn bỏ ra chút tiền để in các loại gọi là “kinh sách” để hối lộ thần linh trước, cho được việc mình mong cầu.
Họ đâu biết rằng các loại sách rẻ tiền, các loại
băng giảng tạp nhạp, hình thức bề ngoài có vẻ như đạo Phật, do chính các chùa
in, các nhà sư giảng, nhưng nội dung rất phi chánh pháp, cho nên vô tình góp
phần truyền bá tà pháp, mê tín dị đoan, làm cho nhiều người ngộ độc, tin theo,
rất tai hại.
Chẳng hạn trước đây vài năm, có người góp tiền in
sách Niệm Phật vãng sanh lưu xá lợi. Nghe qua có vẻ Phật pháp, nhưng nội dung
chứa đựng, xen lẫn nhiều tà pháp. Người không học hiểu giáo lý, không nghiên
tầm kinh điển, kể cả một số nhà sư già cũng như trẻ, rất dễ nhầm lẫn, ngộ nhận
rồi ngộ độc, và đem truyền bá nọc độc cho nhiều người khác.
Thêm nữa, có vô số sách thuộc loại tà pháp, mê tín
dị đoan, được in và bỏ bừa bải trong các chùa như: Bạch Y Thần Chú, Linh Cảm
Thần Chú, Pháp Sám Đại Bi, Kinh Di Lặc cứu đời, Kinh Cứu khổ, Địa Mẫu chơn
kinh, Kinh Hoàng Mẫu, Những điều linh ứng, Lời Nguyện,…
DUY
NGÃ ĐỘC TÔN
TAI
HẠI CỦA MÊ TÍN DỊ ĐOAN
Ý
NGHIÃ QUI Y TAM BẢO - SUỐI NGUỒN BÌNH ĐẲNG TÁNH
NHỮNG
THẦN THÔNG PHÉP LẠ LÀM TIỀN CỦA CÁC CHÙA NGÀY NAY
DÂNG
SỚ CẦU AN CÚNG SAO GIẢI HẠN