2017 Ottawa Hai hình ảnh một đời
người.
Thiếu úy Ngô Nhựt Tân khóa 4/71
Thiếu úy Ngô Nhựt Tân khóa 4/71
---------- Forwarded message ----------
From: Mai Nguyen mainguyen54@hotmail.com
Date: 2017-11-15 7:33 GMT-05:00
Subject: Fwd: [thin-nhn] Fwd: Hai hình ảnh một đời người
To: cutranlacdao.2010@gmail.com
Subject: Fwd: [thin-nhn] Fwd: Hai hình ảnh một đời người
To: cutranlacdao.2010@gmail.com
Kính bạch Thầy,
Con có câu hỏi và kính mong Thầy chỉ
bảo.
Con sống tại Ottawa hơn 35 năm, con có
biết về ông Ngô Nhựt Tân.
Khi còn nhỏ, không rõ cơ duyên nào, ông
tu trong chùa, sau đó, ông hoàn tục, đi học, đi lính và vượt biên sau 1975.
Lập gia đình và có 2 con, năm 2011 ông
Tân qua Miến Điện và tu theo phái Theravada được một thời gian ngắn rồi ông lại
hoàn tục với lý do là bị bệnh và trở về sống với vợ.
Mùa hè năm 2014, con có gặp vợ chồng ông
ta, con hỏi: “Như vầy thì tôi phải gọi như thế nào, ông hay thầy?”,
ông Tân trả lời: “Tôi bị bệnh nên không
tu nữa chị”.
vậy mà đến bây giờ ông vẫn là đại đức
Thích Huệ Quang có vợ, thay vì là cư sĩ tại gia Ngô Nhựt Tân.
Buồn cho Phật pháp ngày nay đã bị lợi
dụng để thỏa mãn mục đích và tham vọng cá nhân.
Thưa Thầy, là một phật tử, thái độ của
con phải như thế nào trước Pháp Nạn nầy?
Kính thư,
Mai Nguyễn
Sent from
my iPad
Begin
forwarded message:
From: an truong tranglinhthuu@yahoo.com
To: daythanai@yahoogroups.com
Cc: chanthienmy@yahoogroups.com
Subject: Re: Fwd: [thin-nhn] Fwd: Hai hình ảnh một đời người
To: daythanai@yahoogroups.com
Cc: chanthienmy@yahoogroups.com
Subject: Re: Fwd: [thin-nhn] Fwd: Hai hình ảnh một đời người
From: Suong Lam Tran suonglamt@gmail.com
SuongLam Tran DHVK suonglamportland.wordpress.com
SuongLam Tran DHVK suonglamportland.wordpress.com
Date: November 11, 2017 at
4:58:58 PM PST
To: ThiềnNhàn SươngLamGroup thin-nhn@googlegroups.com hoicaonienor@googlegroups.com HoiCaoNienOR@googlegroups.com
Subject: [thin-nhn] Fwd: Hai hình ảnh một đời người
To: ThiềnNhàn SươngLamGroup thin-nhn@googlegroups.com hoicaonienor@googlegroups.com HoiCaoNienOR@googlegroups.com
Subject: [thin-nhn] Fwd: Hai hình ảnh một đời người
Kinh chuyen tiep
Thật đáng ngưỡng
phục!
Cám ơn anh Anthony
Huỳnh nhé.
Kính chúc an vui.
Sương Lam
2017-11-11 10:26
GMT-08:00 Anthony Huynh
Xin gửi đến quý vị và
các thân hửu về một đời người với hai hình ảnh sau:
Hiên ngang đi vào
binh lửa
Thiếu úy Ngô Nhựt
Tân khóa 4/71 (đi đầu) LĐ 81 Biệt cách Dù
An Lộc địa danh ghi
chiến sử
Biệt kích Dù vị quốc
vong thân
Khoan thai đi vào cửa
thiền
Khoan thai đi vào cửa
thiền
Đại Đức Thích Huệ
Quang đang giảng Pháp và dạy thiền cho các Sinh Viên người bản
xứ Ottawa, Canada
Sau khi gảy
súng 30/4/75 Th/úy N N Tân cũng tù đày cải tạo, rồi trốn trại, vượt biên
đến và định cư tại Canada.
Email: huequangqh@gmail.com
Sư Huệ Quang-Bhante Kheminda-Ngô Nhựt Tân
Follow my foot steps from Mahayana to Theravada tradition
CÁCH XƯNG HÔ TRONG
PHẬT GIÁO (PHTQ số 16)
Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ
Trong khóa nghiên tu an cư mùa hạ năm 2005,
tại Tổ đình Từ Quang Montréal, Canada,
các thắc mắc sau đây được nêu lên
trong phần tham luận:
1)
Khi nào gọi các vị xuất gia bằng Thầy,
khi nào gọi bằng
Đại Đức, Thượng Tọa hay Hòa Thượng?
2)
Khi nào gọi các vị nữ xuất gia bằng Ni cô,
Sư cô, Ni sư hay Sư
Bà? Có bao giờ gọi là Đại Đức Ni, Thượng Tọa Ni hay Hòa Thượng Ni chăng?
3) Khi ông bà cha mẹ gọi
một vị sư là Thầy hay Sư phụ, người con hay cháu phải gọi là Sư ông, hay
cũng gọi là Thầy? Như vậy con cháu bất kính, coi như ngang hàng với bậc
bề trên trong gia đình chăng?
4) Một vị xuất gia còn
ít tuổi đời (dưới 30 chẳng hạn) có thể nào gọi một vị tại gia nhiều tuổi (trên
70 chẳng hạn) bằng “con” được chăng, dù rằng vị tại gia cao niên đó xưng
là “con” với vị xuất gia?
5) Sau khi xuất
gia, một vị tăng hay ni xưng hô như thế nào với người thân trong gia
đình?
* * *
Trước khi đi vào phần giải
đáp các thắc mắc trên, cần thông qua các điểm sau đây:
*1) Chư Tổ
có dạy: “Phật pháp tại thế gian”.
Nghĩa là: việc đạo không thể tách rời việc
đời. Nói một cách khác, đạo ở tại đời, người nào cũng đi từ đời vào đạo,
nương đời để ngộ đạo, tu tập để độ người, hành đạo để giúp đời.
Chư Tổ cũng có dạy:
“Hằng thuận chúng
sanh”.
Nghĩa là: nếu phát tâm tu theo Phật, dù tại gia hay
xuất gia, đều nên luôn luôn thuận theo việc dùng tứ nhiếp pháp (bố thí, ái ngữ,
lợi hành và đồng sự) để đem an lạc cho chúng sanh, tức là cho mọi người trong
đời, bao gồm những người đang tu trong đạo.
*2) Từ đó, chúng
ta chia cách xưng hô trong đạo Phật ra hai trường hợp:
Một là, cách
xưng hô chung trước đại chúng nhiều người, có tính cách chính thức, trong
các buổi lễ, cũng như trên các văn thư, giấy tờ hành chánh. Hai là, cách xưng hô riêng giữa hai người, tại
gia hay xuất gia, mà thôi. Người chưa rõ cách xưng hô trong đạo không
nhứt thiết là người chưa hiểu đạo, chớ nên kết luận như vậy. Cho nên,
việc tìm hiểu và giải thích là bổn phận của mọi người, dù tại gia hay xuất gia.
*3) Có hai loại
tuổi được đề cập đến, đó là:
tuổi đời và tuổi
đạo.
Tuổi đời là tuổi tính theo đời, kể từ năm sinh
ra.
Tuổi đạo là tuổi thường được nhiều người tính từ
ngày xuất gia tu đạo.
Nhưng đúng ra,
tuổi đạo phải được tính từ năm thụ cụ túc giới và
hằng năm phải tùng hạ tu học theo chúng và đạt tiêu chuẩn, mỗi năm như vậy được
tính một tuổi hạ.
Nghĩa là tuổi đạo còn được gọi là tuổi hạ
(hay hạ lạp).
Trong nhà đạo,
tất cả mọi việc, kể cả cách xưng hô, chỉ tính tuổi
đạo, bất luận tuổi đời.
Ở đây không bàn đến việc những vị chạy ra chạy vào,
quá trình tu tập trong đạo không liên tục.
* * *
Bây giờ, chúng ta bắt đầu từ việc một người tuổi
đời dưới 20 phát tâm xuất gia, hay do gia đình đem gửi gắm vào cửa chùa, thường
được gọi là chú tiểu, hay điệu.
Đó là các vị đồng chơn nhập đạo. Tùy theo số tuổi,
vị này được giao việc làm trong chùa và học tập kinh kệ, nghi lễ.
Thời gian sau, vị này được thụ 10 giới, gọi là Sa di (nam) hay Sa di ni (nữ), hoặc Chú (nam) hay Ni cô (nữ).
Khi tuổi đời dưới 14, vị này được giao việc đuổi
các con quạ quấy rầy khu vực tu thiền định của các vị tu sĩ lớn tuổi hơn, cho
nên gọi là “khu ô sa di” (sa di đuổi quạ).
Đến năm được ít nhất là 20 tuổi đời, và chứng tỏ
khả năng tu học, đủ điều kiện về tu tánh cũng như tu tướng,
vị này được thụ giới cụ túc, tức là 250 giới tỳ
kheo (nam) hay 348 giới tỳ kheo ni (nữ) và được gọi là Thầy (nam) hay Sư cô
(nữ). Trên giấy tờ thì ghi là Tỳ
Kheo (nam) hay Tỳ Kheo Ni (nữ)
trước pháp danh của vị xuất gia.
Ở đây xin nhắc thêm, trước khi thụ giới tỳ kheo ni,
vị sa di ni (hoặc thiếu nữ 18 tuổi đời xuất gia và chưa thụ giới sa di ni) được
thụ 6 chúng học giới trong thời gian 2 năm, được gọi là Thức xoa ma na ni. Cấp
này chỉ có bên ni, bên tăng không có.
Tuy nhiên trong tạng luật, có đến 100 chúng học
giới chung cho cả tăng và ni. Cũng cần nói thêm, danh từ tỳ kheo có nơi
còn gọi là tỷ kheo, hay tỳ khưu, tỷ khưu.
Bên nam tông, tỷ kheo có 227 giới, tỷ kheo ni có
311 giới.
Giới cụ túc (tỳ kheo hay tỳ kheo ni)
là giới đầy đủ, viên mãn, cao nhất trong đạo Phật
để từng vị xuất gia tu tập cho đến lúc mãn đời (thường gọi là viên tịch, không
nên lạm dụng từ vãng sanh), không phải thụ giới nào cao hơn.
Việc thụ bồ tát giới (tại gia hay xuất gia) là do sự phát tâm riêng của từng vị theo bắc tông,
nam tông không có giới này.
Ở đây, xin nói thêm rằng:
Bắc tông (hay bắc
truyền, phát triển) là danh từ chỉ các tông phái tu theo sự truyền thừa về phương bắc của xứ
Ấn Độ, qua các xứ Tây Tạng, Trung Hoa, Triều Tiên, Nhật bổn và Việt Nam.
Nam tông (hay nam truyền, nguyên thủy) là danh từ chỉ các
tông phái tu theo sự truyền thừa về phương nam của xứ Ấn Độ, qua các xứ Tích
Lan, Thái Lan, Miến Điện, Lào, Cao Miên và Việt Nam.
Trong lúc hành đạo,
tức là làm việc đạo trong đời, đem đạo độ đời, nói
chung sự sinh hoạt của Phật giáo cần phải thiết lập tôn ti trật tự (cấp bậc) có
danh xưng theo hiến chương của Giáo Hội Phật Giáo như sau:
1) Năm 20 tuổi đời, vị xuất gia thụ giới tỳ kheo
được gọi là Đại Đức.
2) Năm 40 tuổi đời, vị tỳ kheo được 20 tuổi đạo,
được gọi là Thượng Tọa.
3) Năm 60 tuổi đời, vị tỳ kheo được 40 tuổi đạo,
được gọi là Hòa Thượng.
Còn đối với bên nữ (ni bộ):
4) Năm 20 tuổi đời, vị nữ xuất gia thụ giới tỳ
kheo ni được gọi là Sư cô (hiện nay
ở Canada, có giáo hội gọi các vị tỳ kheo ni này là Đại Đức).
5) Năm 40 tuổi đời, vị tỳ kheo ni được 20 tuổi
đạo, được gọi là Ni sư.
6) Năm 60 tuổi đời, vị tỳ kheo ni được 40 tuổi
đạo, được gọi là Sư bà (bây giờ gọi
là Ni trưởng).
Đó là các danh xưng chính thức theo tuổi đời và tuổi
đạo (hạ lạp), được dùng trong việc điều hành Phật sự, trong hệ thống tổ
chức của Giáo Hội Phật Giáo, không được lạm dụng tự xưng, tự phong, tự thăng
cấp, mà phải được xét duyệt và chấp thuận bởi một hội đồng giáo phẩm có thẩm
quyền, và được cấp giáo chỉ tấn phong, nhân dịp Đại Lễ hay Đại Hội Phật
Giáo, trong các Giới Đàn, hay trong mùa an cư kết hạ hằng năm.
Như trên, chúng ta có thể hiểu rằng: Sư cô nghĩa là
Đại đức bên ni bộ. Ni sư nghĩa là Thượng tọa bên ni bộ. Sư bà (hay
Ni trưởng) nghĩa là Hòa thượng bên ni bộ.
Bởi vậy cho nên, các buổi lễ hay văn thư chính
thức, thường nêu lên là: “Kính bạch
chư tôn Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức, Tăng Ni”, chính là nghĩa đó vậy.
Tuy vậy, trên thực tế, chưa thấy có nơi nào chính
thức dùng các danh xưng: Đại đức ni, Thượng tọa ni, hay Hòa thượng ni.
Nếu có nơi nào đã dùng, chỉ là cục bộ, chưa chính thức phổ biến, nghe không
quen tai nhưng không phải là sai. Đối với các bậc Hòa Thượng mang trọng trách
điều hành các cơ sở Giáo Hội Phật Giáo trung ương cũng như địa phương, hay các
Đại Tùng Lâm, Phật Học Viện, Tu Viện, thường là các vị trên 80 tuổi đời, được
tôn xưng là Đại Lão Hòa Thượng hay Trưởng Lão Hòa Thượng. Các vị thuộc
hàng giáo phẩm này thường được cung thỉnh vào các hội đồng trưởng lão, hoặc hội
đồng chứng minh tối cao của các Giáo Hội Phật Giáo. Tuy nhiên, khi ký các
thông bạch, văn thư chính thức, chư tôn đức vẫn xưng đơn giản là Tỳ kheo, hay Sa môn (có nghĩa là: thầy tu).
Đến đây,
chúng ta nói về cách xưng
hô giữa các vị xuất gia với nhau
và giữa các vị cư sĩ Phật
tử tại gia và tu sĩ xuất gia trong đạo Phật.
1)* Giữa các vị
xuất gia, thường xưng con (hay xưng pháp danh, pháp hiệu) và gọi vị kia là Thầy
(hoặc gọi cấp bậc hay chức vụ vị đó đảm trách). Bên tăng cũng như bên ni,
đều gọi sư phụ bằng Thầy, (hay Sư phụ, Tôn sư, Ân sư).
Các vị xuất gia cùng tông môn, cùng sư phụ, thường
gọi nhau là Sư huynh, Sư đệ, Sư tỷ, Sư muội, và gọi các vị ngang vai vế với Sư
phụ là Sư thúc, Sư bá. Có nơi dịch
ra tiếng Việt, gọi nhau bằng Sư anh, Sư chị, Sư em.
Ngoài đời có các danh xưng: bạn hữu, hiền hữu, thân
hữu, hội hữu, chiến hữu.
Trong đạo Phật có các danh xưng: đạo hữu (bạn cùng
theo đạo), pháp hữu (bạn cùng tu theo giáo pháp).
Các danh xưng: tín hữu (bạn cùng tín ngưỡng, cùng
đức tin), tâm hữu (bạn cùng tâm, đồng lòng) không thấy được dùng trong đạo
Phật.
2)* Khi tiếp xúc
với chư tăng ni, quí vị cư sĩ Phật Tử tại gia (kể cả thân quyến của chư tăng
ni) thường đơn giản gọi bằng Thầy, hay Cô, (nếu như không biết rõ hay không
muốn gọi phẩm trật của vị tăng ni có tính cách xã giao), và thường xưng là con
(trong tinh thần Phật pháp, người thụ ít giới bổn tôn kính người thụ nhiều giới
bổn hơn, chứ không phải tính tuổi tác người con theo nghĩa thế gian) để tỏ lòng
khiêm cung, kính Phật trọng tăng, cố gắng tu tập, dẹp bỏ bản ngã, dẹp bỏ tự ái,
cống cao ngã mạn, mong đạt trạng thái: niết bàn vô ngã, theo lời Phật
dạy.
Có những vị cao tuổi xưng tôi hay chúng tôi với vị
tăng ni trẻ để tránh ngại ngùng cho cả hai bên.
Khi qui y Tam Bảo thụ ngũ giới (tam qui ngũ giới),
mỗi vị cư sĩ Phật Tử tại gia có một vị Thầy (Tăng bảo) truyền giới cho mình.
Vị ấy được gọi là Thầy Bổn sư. Cả gia đình có thể cùng chung một vị Thầy Bổn sư, tất
cả các thế hệ cùng gọi vị ấy bằng Thầy.
Theo giáo phái khất sĩ,
nam tu sĩ được gọi chung là Sư và nữ tu sĩ được gọi chung là Ni.
Còn nam tông chỉ có Sư, không có hay chưa có
Ni.
Việc tâng bốc, xưng hô
không đúng phẩm vị của tăng ni, xưng hô khác biệt trước mặt và sau lưng,
tất cả đều nên tránh, bởi vì không ích lợi cho việc tu tâm dưỡng tánh.
3)* Khi tiếp xúc
với quí vị cư sĩ Phật Tử tại gia, kể cả người thân trong gia quyến, chư tăng ni
thường xưng là tôi hay chúng tôi (hay xưng pháp danh, pháp hiệu, hoặc bần tăng,
bần ni), cũng có khi chư tăng ni xưng là Thầy, hay Cô, và gọi quí vị là đạo
hữu, hay quí đạo hữu. Cũng có khi chư tăng ni gọi quí vị tại gia bằng pháp
danh, có kèm theo (hay không kèm theo) tiếng xưng hô của thế gian.
Cũng có khi chư tăng ni gọi quí vị tại gia là “Quí Phật Tử”. Chỗ này không sai,
nhưng có chút không ổn, bởi vì xuất gia hay tại gia đều cùng là Phật Tử, chứ
không riêng tại gia là Phật Tử mà thôi.
Việc một Phật Tử xuất gia (tăng ni) ít tuổi
gọi một Phật Tử tại gia nhiều tuổi bằng “con” thực là không thích đáng,
không nên.
Không nên gọi như vậy, tránh sự tổn đức.
Không nên bất bình, khi nghe như vậy, tránh bị loạn
tâm.
Biết rằng mọi chuyện trên đời:
ngôi thứ, cấp bậc, đều có thể thay đổi, nhưng giá
trị tuổi đời không đổi, cứ theo thời gian tăng lên.
Theo truyền thống đông phương, tuổi tác (tuổi đời) rất được kính trọng trong xã hội, dù tại gia hay xuất gia.
4)* Trong các trường
hợp tiếp xúc riêng, tùy thuận theo đời, không có tính cách chính thức, không có
tính cách thuyết giảng, chư tăng ni có thể gọi các vị cư sĩ Phật Tử tại gia, kể
cả người thân trong gia quyến, một cách trân trọng, tùy theo tuổi tác, quan hệ,
như cách xưng hô xã giao người đời thường dùng hằng ngày.
Danh xưng Cư sĩ hay Nữ Cư sĩ thường dùng cho quí
Phật Tử tại gia, qui y Tam bảo,
thụ 5 giới, phát tâm tu tập và góp phần hoằng
pháp. Còn được gọi là Ưu bà tắc (Thiện
nam, Cận sự nam) hay Ưu bà di (Tín nữ, Cận sự nữ).
5)* Chúng ta thử bàn
qua một chút về ý nghĩa của tiếng xưng
“con” trong đạo Phật qua hình ảnh của ngài La Hầu La.
Ngài là con của đức Phật theo cả hai nghĩa: đời và đạo.
Ngài sớm được tu tập trong giới pháp, công phu và
thiền định khi tuổi đời hãy còn thơ.
Ngài không ngừng tu tập, cuối cùng đạt được mục
đích tối thượng.
Ngài thực sự thừa hưởng gia tài siêu thế của đức
Phật, nhờ diễm phúc được làm “con” của bậc đã chứng ngộ chân lý.
Ngài là tấm gương sáng cho các thế hệ Phật tử tại
gia (đời) cũng như xuất gia (đạo), bất luận tuổi tác, tự biết mình có phước báo
nhiều kiếp, hoan hỷ được xưng “con” trong giáo pháp của
đức Phật.
6)* Đối với các
vị bán thế xuất gia,
nghĩa là đã lập gia đình trước khi vào đạo, vẫn
phải trải qua các thời gian tu tập và thụ giới như trên, cho nên cách xưng hô
cũng không khác.
Tuy nhiên để tránh việc gọi một người đứng tuổi xuất gia (trên 40, 50) là chú tiểu, giống như gọi các vị trẻ
tuổi, có nơi gọi các vị bán thế xuất gia này là Sư chú, hay Sư bác.
Hai từ ngữ này có nơi mang ý nghĩa khác. Việc
truyền giới cụ túc, hay tấn phong, có khi không đợi đủ thời gian như trên đây,
vì nhu cầu Phật sự của giáo hội, hay nhu cầu hoằng pháp của địa phương, nhất là
đối với các vị bán thế xuất gia có khả năng hoằng pháp, từng đảm nhận trọng trách,
hay nghiên cứu tu tập trước khi vào đạo.
7)* Vài xưng hô
khác trong đạo như: Sư Ông, Sư Cụ
thường dành gọi vị sư phụ của sư phụ mình, hoặc gọi chư tôn đức có hạ lạp cao,
thu nhận nhiều thế hệ đệ tử tại gia và xuất gia. Một danh xưng nữa là Pháp Sư, dành cho các vị xuất gia tăng
hay ni (sư) có khả năng và hạnh nguyện thuyết pháp (pháp) độ sanh. Ngoại đạo
lạm dụng danh xưng này chỉ các ông bà thầy pháp, thầy cúng.
8)* Danh xưng Sư Tổ được dành cho chư tôn đức lãnh
đạo các tông phái còn tại thế, và danh xưng Tổ Sư được dành cho chư tôn đức đã viên tịch, được hậu thế truy
phong vì có công lao trọng đại đối với nền đạo. Đối với các bậc cao tăng thạc
đức thường trụ ở một tự viện, người trong đạo thường dùng tên của ngôi già lam
đó để gọi quí ngài, tránh gọi bằng pháp danh hay pháp hiệu của quí
ngài, để tỏ lòng tôn kính.
9)* Ngày xưa khi
đức Phật còn tại thế, các vị tỳ kheo thường dùng tiếng Ðại Ðức (bậc thầy đức độ lớn lao, phúc tuệ lưỡng toàn) để xưng tán
Ngài, mỗi khi có việc cần thưa thỉnh. Các vị đệ tử lớn của đức Phật cũng
được gọi là Ðại Ðức. Trong các giới đàn ngày nay, các giới tử cũng xưng
tán vị giới sư là Đại Đức.
10)* Nói chung,
cách xưng hô trong đạo Phật nên thể hiện lòng tôn kính lẫn nhau, noi theo Bồ
tát Thường bất khinh, bất tùy phân biệt, bất luận tuổi tác, dù tại gia hay xuất gia, nhằm ngăn ngừa tư tưởng luyến ái của thế tục,
nhắm thẳng hướng giác ngộ chân lý, giải thoát sinh tử khổ đau, vượt khỏi vòng
luân hồi loanh quanh luẩn quẩn.
Nhất giả lễ kính chư Phật.
Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh.
Cho nên đơn giản nhất là: “xưng con gọi Thầy”.
Theo các bộ luật bắc tông
và nam tông còn có nhiều chi tiết hơn.
Tóm lại,
ngôn ngữ, danh từ chỉ là phương tiện tạm dùng giữa
con người với nhau, trong đạo cũng như ngoài đời, có thể thay đổi theo thời
gian và không gian, cho nên cách xưng hô trong đạo Phật tùy duyên, không có
nguyên tắc cố định, tùy theo thời đại, hoàn cảnh, địa phương, tông phái, hay
tùy theo quan hệ giữa hai bên.
Đó là phần tu
tướng.
Các vị phát tâm xuất gia tu hành, các vị phát tâm
tu tập tại gia, đã coi thường mọi thứ danh lợi, địa vị của thế
gian thì quan trọng gì chuyện xưng hô, tranh hơn thua chi
lời nói, quan tâm chi chuyện ăn trên ngồi trước, đi trước đứng sau, tranh chấp
danh tiếng, tranh cãi lợi dưỡng, tranh giành địa vị, đòi hỏi chức vụ, nếu có,
trong nhà đạo.
Đồng quan điểm hay không, được cung kính hay không,
xưng hô đúng phẩm vị hay không, chẳng đáng quan tâm, tránh sự tranh cãi.
Nơi đây không bàn đến cách xưng hô của những người
không thực sự phát tâm tu tập, hý
ngôn hý luận, náo loạn thiền môn, dù tại gia cũng như xuất gia.
Nhất niệm sân tâm khởi, bách vạn chướng môn khai.
Nhất niệm sân tâm khởi, thiêu vạn công đức lâm,
chính là nghĩa như vậy.
Cách xưng hô nên làm cho
mọi người, trong đạo cũng như ngoài đời, cảm thấy an lạc, thoải mái, hợp với
tâm mình, không trái lòng người, không quá câu nệ chấp nhứt, thế thôi!
Đó là phần tu tâm.
Trong đạo Phật,
cách xưng hô có thể biến đổi nhưng có một điều quan
trọng bất biến, không biến đổi,
đó là phẩm hạnh, phẩm chất,
đức độ, sự nổ lực, cố gắng tu tâm dưỡng tánh
không ngừng, cho đến ngày đạt mục đích cứu cánh: giác ngộ và giải thoát, đối với Phật Tử tại gia cũng như xuất gia.
Đó chính là một phần ý nghĩa của “tùy duyên bất biến” trong đạo Phật
vậy.[]
Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ
Kính mời quí vị xem bài viết "Bát Chánh Đạo" theo link: