Căm thù, kỳ thị là một cảm
xúc rất con người.
Căm thù, kỳ thị là điều không tránh khỏi khi ai đó bị tổn thương
sâu sắc.
Nhưng khi lòng căm thù không được hóa giải mà lại chủ ý nuôi dưỡng thì
dần dần nó còn gây ra những điều tệ hại cho con người hơn rất nhiều lần nỗi đau
họ từng phải gánh chịu.
Trong hơn trăm năm nay, do hoàn cảnh của đất nước,
con người có nhiều nỗi căm thù và kỳ thị. Chẳng hạn như:
1. kỳ thị địa phương: bắc trung nam.
2. kỳ thị tôn giáo: đạo thờ ông bà, đạo chúa, đạo phật.
3. kỳ thị phe phái: các đảng phái tranh chấp, trả thù, tiêu diệt nhau.
4. kỳ thị ngôn ngữ, suy nghĩ, trước sau 1975.
5. kỳ thị trong nước và ngoài nước.
6.
kỳ thị chiến tuyến, chỉ thấy một chiều, đối phương quá sức tàn ác với
mình và gia đình mình, không thấy phe mình tàn ác thế nào với đối
phương.
7.
kỳ thị, nhân danh chống cộng, đi đến chụp mũ mọi người bất đồng quan
điểm là cộng sản, là quỷ ám, là đáng sợ hơn quỷ dữ. Cho nên càng chống
cộng càng nhìn xung quanh mình, tất cả mọi người đều là quỷ dữ, dùng
kinh thánh cầu nguyện thay cho lời nguyền rủa vô cùng độc ác.
Tương tự, sau thời kỳ Trịnh-Nguyễn phân tranh
phải trải qua vài ba thế hệ, mối hận thù trong chiến tranh, cả hai bên đều thiệt hại và khổ đau, mới phai dần.
Kính mời quí vị tham khảo bài viết
Bất Tùy Phân Biệt
Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ
Trên phương diện tự do tư tưởng, con người thường phát biểu nhiều ý kiến. Sống trên đời này, có nhiều ý kiến mới tỏ ra mình là con người văn minh tiến bộ, thuộc giới trí thức, học cao hiểu rộng, kiến thức uyên bác, đông tây kim cổ kinh sử lão thông, việc gì cũng tỏ ra mình rành rọt cả sáu câu, thông suốt từ A đến Z. Cùng một sự việc, cùng một vấn đề, mỗi người đều có ý kiến riêng của mình. "Không ai giống ai". Không ai chịu nhường bước ai. Không ai chịu nhìn nhận ý kiến của ai. Không ai thực sự biết tôn trọng chân lý, cho nên thường đưa đến chỗ tranh cãi một cách quyết liệt, đôi khi còn đi xa hơn!
Trên phương diện tự do tư tưởng, con người thường phát biểu nhiều ý kiến. Sống trên đời này, có nhiều ý kiến mới tỏ ra mình là con người văn minh tiến bộ, thuộc giới trí thức, học cao hiểu rộng, kiến thức uyên bác, đông tây kim cổ kinh sử lão thông, việc gì cũng tỏ ra mình rành rọt cả sáu câu, thông suốt từ A đến Z. Cùng một sự việc, cùng một vấn đề, mỗi người đều có ý kiến riêng của mình. "Không ai giống ai". Không ai chịu nhường bước ai. Không ai chịu nhìn nhận ý kiến của ai. Không ai thực sự biết tôn trọng chân lý, cho nên thường đưa đến chỗ tranh cãi một cách quyết liệt, đôi khi còn đi xa hơn!
Sách có câu:
"Năm người mười ý". Nghĩa là một người có ít ra là hai ý kiến trong
cùng một vấn đề. Một người có ý kiến thế này, nhưng một lúc sau hay một ngày
sau, chính người đó lại có ý kiến thế khác, thay đổi ý kiến của chính mình. Bởi
thế cho nên con người đấu tranh, cãi vã nhau để bênh vực ý kiến chủ quan
"nhứt định là đúng không sai" của mình, võ mồm võ miệng không xong
thì xử dụng võ lực, nếu sống trong tình trạng chậm tiến, kém phát triển. Còn
nếu như sống trong thế giới văn minh hơn, tiến bộ hơn, phát triển hơn ở các
nước Âu Mỹ, con người thưa kiện nhau ra ba tòa quan lớn, quan nhỏ để đòi bồi
thường cho bằng được một đô la danh dự hão, sau khi đã tiêu pha gần hết cơ nghiệp
thực, đã vất vả gầy dựng bấy lâu nay trong các chi phí kiện tụng.
Từ ngàn xưa cho
đến ngày nay, con người khổ đau triền miên như vậy, cho nên đạo Phật gọi đời là
bể khổ. Trong nhiều kiếp trầm luân sanh tử, nước mắt của chúng sanh nhiều hơn
bốn biển lớn. Tâm trạng con người thay đổi triền miên, nay thương mai ghét, nay
ghét mai lại thương. Thương thương ghét ghét như những sợi dây xích trói buộc con
người trong vòng phiền não khổ đau, như những lượn sóng cao ngất trời vùi dập con
người trong sinh tử triền miên. Biển khổ sông mê mênh mông, chuyện này chưa
dứt, chuyện khác xảy ra, như những đợt sóng vỗ, trùng trùng điệp điệp, tiếp nối
nhau, cao ngất trời, không biết đến bao giờ mới dứt. Bởi vậy, trong kinh sách
có câu: "Ái hà thiên xích lãng. Khổ hải vạn trùng ba".
Tuy nhiên, đạo
Phật không dừng ở chỗ thế gian thường than trời trách đất, kêu khổ, khổ ơi là
khổ đó. Đạo Phật chỉ dạy cho con người nhận định rõ ràng: Cuộc đời khổ nhiều
vui ít, cuộc đời sống nay chết mai, cuộc đời nay còn mai mất, không ai biết
trước cuộc đời ngày sau sẽ ra sao? Nhưng đạo Phật không có ý tiêu cực, bi quan,
chán nản, yếm thế. Đạo Phật chỉ dẫn con đường giác ngộ và giải thoát, chứ không
dẫn dắt con người đến chỗ yếu đuối, bạc nhược, chỉ biết đặt đức tin vô căn cứ
vào thượng đế tưởng tượng, cầu nguyện van xin.
Đạo Phật chỉ dạy
rất nhiều phương pháp, gọi là vô lượng pháp môn, con người ứng dụng để tự giác
ngộ và giải thoát mọi phiền não và khổ đau của chính mình một cách tích cực,
một cách thiết thực, nhằm xây dựng cuộc đời an lạc hơn, hạnh phúc hơn. Trong vô
lượng pháp môn đó, có pháp môn gọi là "Bất Tùy Phân Biệt". Pháp môn
này được Đức Phật chỉ dạy trong bộ kinh Thủ Lăng Nghiêm, không những dành cho Phật
Tử, mà còn dành cho tất cả những ai trên đời muốn tìm hiểu cội gốc của phiền
não và khổ đau, cùng những phương pháp giải thoát khỏi các khổ đau và phiền não
đó.
Trước hết, từ ngữ
"bất tùy" có nghĩa là: không theo. Còn hai chữ "phân biệt",
tùy theo chỗ dùng, được tạm giải thích có nghĩa là: kỳ thị, so đo, suy lường,
tính toán, hơn thua, phải quấy, thị phi, cố chấp, thành kiến, định kiến, thường
kiến, đoạn kiến, tà kiến, ác kiến, thiên kiến, biên kiến. Vậy, "bất tùy
phân biệt" có nghĩa là trong cuộc sống, muốn được an lạc và hạnh phúc, chúng
ta không nên để tâm niệm chạy theo những tư tưởng tính toán, so đo, hơn thua, thị
phi, phải quấy, không nên có đầu óc kỳ thị, thiên lệch, thành kiến, nghiêng bên
này hay bên kia, bênh vực con mình gièm pha con người khác, không cố chấp một ý
nghĩ cố định nào của mình là chân lý tuyệt đối. Một hạt minh châu, hạt châu như
ý, có thể phát ra nhiều sắc sáng khác nhau, tùy theo góc cạnh nhìn của mỗi
người.
Ở đây, xin nói
ngay, "bất tùy phân biệt" không có nghĩa là chúng ta không hiểu biết,
không phân biệt được thế nào là chánh tà, chơn ngụy, thiên viên, đại tiểu. Tức
là không phải chúng ta không có trí tuệ để có thể phân biệt được thế nào là
đúng hay sai, thế nào là thực hay giả, thế nào là thiên lệch hay viên mãn, thế
nào là rộng lớn hay nhỏ mọn. Trái lại, chúng ta đã hiểu biết một cách tường tận
muôn sự muôn vật đúng như thực tướng, không điên đảo, không sai sót. Hơn thế
nữa, chúng ta còn phải vượt qua trình độ hiểu biết căn bản đó, đạt được sự hiểu
biết khá hơn, giác ngộ cao siêu hơn, mới gọi là "bất tùy phân biệt"
được.
Chúng ta hiểu
biết rõ ràng thế nào là chánh tà, chơn ngụy, thiên viên, đại tiểu, nhưng chúng
ta không hề cố chấp vào đó để đưa đến phiền não và khổ đau. Tại sao vậy? Bởi vì
tâm phân biệt, kỳ thị già trẻ, lớn bé, sang hèn, giàu nghèo, nam nữ, xuất xứ, học
thức, chủ tớ, thân sơ, thương ghét, màu da, dân tộc, địa phương, tôn giáo,
không thể nào đem lại an lạc và hạnh phúc, chỉ đưa chúng ta đến phiền não và
khổ đau mà thôi. Ở đời, chúng ta thường trách người khác có tâm phân biệt,
nhưng ít khi chịu phản quan tự kỷ, xét lại xem chính mình có tâm phân biệt như
vậy hay không? Bởi vì khi chúng ta nói người này, người kia có tâm phân biệt,
tức là chúng ta đã có tâm phân biệt rồi đó.
Đối với một sự
việc nào đó, chúng ta thường không chịu suy xét một cách khách quan, mà hay có
tâm phân biệt già trẻ, lớn bé, sang hèn, giàu nghèo, nam nữ, xuất xứ, học thức,
chủ tớ, thân sơ, thương ghét, màu da, dân tộc, địa phương, tôn giáo, để đi đến kết
luận một cách thiên lệch, không đúng chơn lý, không đúng lẽ phải, không đúng sự
thực. Thí dụ như với người thân thích, chúng ta luôn luôn bênh vực, sao cũng
cho là đúng! Còn với tất cả những người khác, thế nào cũng cho là sai. Với
người đồng đạo hay cùng tổ chức, chúng ta luôn luôn bênh vực, cho là đúng, cái
gì cũng đúng! Nhưng với người khác đạo, khác tổ chức thì cho là sai, cái gì
cũng sai, tất cả đều sai! Tâm kỳ thị, tâm thiên lệch "phủ bênh phủ, huyện
bênh huyện", thực ra đã có tự ngàn xưa. Đó chính là tâm phân biệt của con
người vậy.
Mục đích tối
thượng của đạo Phật còn chỉ dạy chúng ta một điều hết sức cao siêu, vi diệu. Đó
là ngoài những hình tướng bên ngoài như già trẻ, lớn bé, sang hèn, giàu nghèo, nam
nữ, tất cả mọi người trên thế gian này đều có một điều giống nhau, một điều
thật giống nhau, một điều hết sức giống nhau, một điều muôn đời giống nhau, một
điều khắp nơi giống nhau. Dễ hiểu như là máu cùng đỏ, nước mắt cùng mặn, bộ
xương cùng trắng, lục phủ ngũ tạng không khác. Con người thuộc mọi sắc dân trên
khắp thế giới đều như vậy, thậm chí mọi loài súc sanh cũng đều như vậy. Điều
giống nhau, đồng nhau đó là cái gì?
Trong Kinh Kim
Cang, Đức Phật có dạy:"Ly nhứt thiết tướng thị danh thực tướng".
Nghĩa là khi xa lìa tất cả mọi hình tướng bên ngoài của con người, đừng cố chấp,
đừng có tâm phân biệt nam nữ, nghèo giàu, già trẻ, đẹp xấu, chúng ta mới có thể
nhận ra rằng tất cả mọi người trên thế gian này đều có một bản thể giống nhau,
đồng nhau, tạm gọi là "con người chân thật". Muốn hiểu được, thấy
được, giác ngộ được "con người chân thật" của chính mình, chúng ta
phải lắng lòng cho thanh tịnh, không tham lam, không sân hận, không si mê. Cũng
như mặt hồ nước có phẳng lặng mới có thể soi thấy mặt trăng rằm trong đáy nước.
Cũng như không có những đám mây tham sân si che lấp, thì mặt trăng chân thật
mới hiển lộ vậy.
Thế nào là
"con người chân thật"? Đó là con người sáng suốt, có trí tuệ bát nhã,
đủ năng lực giải thoát mọi phiền não và khổ đau. Đó là con người không tham lam,
không sân hận, không si mê, tâm địa lúc nào cũng sáng suốt, thanh tịnh, tỉnh
thức. Đó là con người bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất
giảm. Đó không phải là cái thân xác nặng nề của chúng ta đang có hiện nay. Đó
cũng không phải là cái tâm lăng xăng lộn xộn, suy nghĩ vớ vẫn vẫn vơ của chúng
ta hiện nay. Thật vậy, những lúc tâm chúng ta lăng xăng lộn xộn, lo lắng bất an,
chúng ta không thể sáng suốt suy nghĩ điều gì, nhớ điều gì cả. Chỉ khi nào chúng
ta sống được với "con người chân thật" thì khi đó mới thực sự có được
an lạc và hạnh phúc của cảnh giới thiên đàng, cảnh giới niết bàn mà thôi.
"Con người chân thật" chính là con người không có tâm phân biệt. Nói
cách khác, con người có tâm "bất tùy phân biệt" chính là "con
người chân thật" vậy.
Tâm phân biệt, cố
chấp, thị phi, phải quấy, đúng sai, hơn thua, thường đưa đến phiền não và khổ
đau. Tại sao vậy? Bởi vì trên thế gian này có điều gì đúng hay sai tuyệt đối
đâu. Chẳng hạn như chữ hiếu đối với dân tộc này là nuôi dưỡng cha mẹ già yếu cho
đến lúc mãn phần. Còn chữ hiếu đối với dân tộc khác là khi thấy cha mẹ già thì
họ cho leo lên cây, rồi con cháu xúm lại rung gốc cây. Nếu cha mẹ còn khỏe mạnh
leo trở xuống được, con cháu vui mừng tiếp tục nuôi dưỡng. Bởi lẽ họ quan niệm
rằng cha mẹ còn khỏe mạnh thì mới vui sống và yêu đời.
Cũng vậy, hiện
nay vấn đề phá thai là nhân đạo hay vô nhân đạo? Vấn đề bác sĩ có quyền giúp
bệnh nhân nan y, hết thuốc chữa, đau đớn thập phần, được chết theo ý muốn của
họ hay không? Đâu là câu trả lời đúng nhất, hợp tình, hợp lý, hợp luật, hợp lệ
nhất? Trong nhiều vấn đề, chúng ta có thể chỉ đúng một phần thôi, hãy lắng nghe
ý kiến của người khác, như vậy mới đúng là tinh thần của người biết tôn trọng chân
lý.
Trong Kinh Thủ
Lăng Nghiêm, Đức Phật có dạy:"Tri kiến lập tri tức vô minh bổn. Tri kiến vô
kiến tư tức niết bàn". Nghĩa là chúng ta ai ai cũng có tri kiến, tức là có
sự hiểu biết. Nhưng nếu chúng ta chấp chặt tri kiến của mình là đúng, là độc
nhứt vô nhị, sự chấp chặt đó là gốc của vô minh phiền não. Nếu không cố chấp
như vậy, nhứt định chúng ta sống trong cảnh giới niết bàn cực lạc không nghi.
Sau đây, chúng ta thử tìm hiểu Pháp Tứ Y, Đức Phật dạy trong Kinh A Hàm, gồm có:
Y pháp bất y nhân, Y nghĩa bất y ngữ, Y trí bất y thức, Y liễu nghĩa bất y bất
liễu nghĩa.
1) Trong Pháp Tứ
Y, Đức Phật có dạy: "Y pháp bất y nhân". Nghĩa là chúng ta nên xét
theo sự việc chứ không xét theo con người. Thí dụ như một người ăn hiền ở lành
đúng tiêu chuẩn, thì phải được lên thiên đàng, không phân biệt, không chấp cứ
người đó là có đạo nào hay ngoại đạo. Chứ lên thiên đàng mà cũng phe đảng như
vậy hay sao? Cũng vậy, Niết bàn không dành riêng cho giới tu sĩ. Đó chính là cảnh
giới của tất cả những ai thực hành đúng theo lời Đức Phật đã dạy, không phân
biệt là Phật Tử, hay không phải là Phật Tử.
Tâm phân biệt
người này thế này, người kia thế khác cũng dẫn con người đến phiền não và khổ
đau. Con người phân biệt màu áo tu sĩ với cư sĩ, phân biệt có đạo với ngoại đạo.
Nếu là tu sĩ thì lên Niết bàn, nếu là người có đạo thì lên thiên đàng. Còn số
đông đại chúng muôn vạn triệu triệu người, thì có chỗ dành sẵn dưới địa ngục!
Hởi ơi, đâu là lòng từ bi và bác ái trong những con người có tâm phân biệt như
thế! Chúng ta thường hay chấp chặt, tin ngay lập tức những gì giáo chủ dạy,
những gì người tự nhận đại diện thượng đế nói, mà không chịu xét xem những lời
dạy đó, những lời nói đó có đúng lẽ thực, có hợp chân lý hay không, cứ tin bừa
bãi, tin một cách mù quáng, hết sức mê tín dị đoan, gọi đó là đức tin! Như vậy,
chúng ta đã "y nhân", dù là thượng đế, chứ không "y pháp",
dù là chân lý. Bởi vậy, cho nên ở Âu Mỹ hiện nay, những trung tâm hướng dẫn thiền
định thu hút rất nhiều người đến thực tập, không phân biệt sắc dân hay tôn giáo
gì cả. Ở những nơi đó, con người tư duy chân lý, quán sát lẽ thực, thực hành Chánh
Pháp. Người nào thực tập đúng pháp môn thiền định thì đạt được cảnh giới an lạc
và hạnh phúc đó, một cách bất tùy phân biệt! Như vậy chính là "y pháp bất
y nhân".
2) Trong Pháp Tứ
Y, Đức Phật có dạy: "Y nghĩa bất y ngữ". Nghĩa là đừng chấp những lời
nói, ngôn ngữ, bài viết không có ý nghĩa gì, chúng ta sẽ không phiền não và khổ
đau. Thí dụ như có người hỏi chúng ta rằng: Sao dạo này anh chị mất uy tín quá
vậy? Câu hỏi đó không có ý nghĩa gì cả, chỉ nhằm mục đích chọc tức chúng ta mà
thôi. Chúng ta nghe rồi thì thôi, hoặc có thể lờ đi như không nghe thấy, bởi vì
chúng ta hiểu tường tận thế nào là "vô ngã", không thấy có "bản
ngã", nên không thu nhận câu đó vào trong tâm trí. Như vậy chúng ta sẽ
không thấy phiền não và khổ đau.
Hoặc giả khiêm nhường hơn, chúng ta có thể từ tốn đáp: Chúng tôi có uy tín hồi nào đâu để mất cơ chứ! Thí dụ như có người mắng chúng ta giống như con bò. Nếu chúng ta thu nhận câu đó vào tâm trí, rồi sanh phiền não giận tức, quả thực chúng ta không được thông minh cho lắm. Câu nói đó không căn cứ vào đâu cả, chúng ta giận làm gì cho mệt. Hoặc là, có người phê bình chúng ta nóng tánh mà chúng ta tức giận lên tiếng cãi chánh, quả thực người đó nói chẳng sai, chứ còn gì nữa! Thậm chí, nếu có người viết bài phê phán, chỉ trích, miệt thị, mạ lỵ, chưởi bới, vu khống, sỉ vả, khiêu khích, lăng nhục, bôi lọ, chụp mũ, bịa chuyện, mà chúng ta chỉ "y nghĩa bất y ngữ", thì họ làm gì có thể xúc phạm, làm sao có khả năng gây phiền não và khổ đau cho chúng ta được, phải không thưa quí vị!
Hoặc giả khiêm nhường hơn, chúng ta có thể từ tốn đáp: Chúng tôi có uy tín hồi nào đâu để mất cơ chứ! Thí dụ như có người mắng chúng ta giống như con bò. Nếu chúng ta thu nhận câu đó vào tâm trí, rồi sanh phiền não giận tức, quả thực chúng ta không được thông minh cho lắm. Câu nói đó không căn cứ vào đâu cả, chúng ta giận làm gì cho mệt. Hoặc là, có người phê bình chúng ta nóng tánh mà chúng ta tức giận lên tiếng cãi chánh, quả thực người đó nói chẳng sai, chứ còn gì nữa! Thậm chí, nếu có người viết bài phê phán, chỉ trích, miệt thị, mạ lỵ, chưởi bới, vu khống, sỉ vả, khiêu khích, lăng nhục, bôi lọ, chụp mũ, bịa chuyện, mà chúng ta chỉ "y nghĩa bất y ngữ", thì họ làm gì có thể xúc phạm, làm sao có khả năng gây phiền não và khổ đau cho chúng ta được, phải không thưa quí vị!
Người ta đưa lửa
tới đốt, nếu chúng ta không đáp ứng, không đưa thân đưa tâm ra lãnh đủ, thì họ
chỉ đốt "hư không" mà thôi, chẳng nhằm nhò gì chúng ta cả. Chửi bới
hồi lâu, không thấy ép phê, không thấy hiệu quả, không thấy động đậy gì về phía
chúng ta, họ cũng chán nản, cảm thấy hao hơi tổn sức, rồi tự ngưng thôi. Còn
nếu chúng ta phản ứng, lên tiếng cãi chánh, thanh-minh-thanh-nga, biện bạch,
cũng giống như chúng ta thổi hơi vào lửa đỏ, cho bùng thêm lên, hà hơi tiếp
sức, gây cảm hứng, tạo duyên cớ cho họ làm tới mà thôi. Lúc Đức Phật còn tại
thế, khi Ngài bị người ngoại đạo theo quấy rầy, Ngài vẫn thản nhiên cất bước, như
không có chuyện gì xảy ra cả. Người đó thấy Đức Phật cứ tiếp tục lặng thinh,
bèn chặn lại hỏi: Này ông Cồ Đàm, có chịu thua chưa? Lúc đó, Đức Phật từ tốn
nói bài kệ như sau: "Người hơn thì thêm oán. Kẻ thua ngủ chẳng yên. Hơn
thua đều xả hết. Giấc ngủ được an lành" .
Như vậy, nếu chúng
ta không chấp những lời nói vô nghĩa, những câu văn, ngôn ngữ xuất phát từ lòng
hận thù, ganh tị, đố kỵ, ghen ghét, chắc chắn chúng ta sẽ không nhức đầu nhói
tim, khỏi uống thuốc chẳng cần dầu cù là, nghĩa là chúng ta không phiền não và
khổ đau. Chẳng hạn như khi chúng ta đi dự tiệc, mãn tiệc ra về, chủ nhà gói quà
biếu tặng, nếu chúng ta không nhận thì chủ nhà phải giữ món quà đó lại. Cũng
vậy, người đời thường tặng chúng ta những lời khen, tiếng chê đầu môi chót
lưỡi, chúng ta không nhận thì sẽ được ăn ngon ngủ yên.
Trong Kinh Pháp
Bảo Đàn, Đức Lục Tổ Huệ Năng có dạy: "Tắng ái bất quan tâm. Trường thân
lưỡng cước ngọa". Nghĩa là những chuyện thương thương ghét ghét, chẳng làm
bận lòng, chúng ta sẽ nằm thẳng hai chân mà an giấc ngủ, khỏi phải trằn trọc
trăn trở, nằm đếm một hai, cho đến trăm ngàn! Khỏe re! Như vậy chính là "y
nghĩa bất y ngữ".
3) Trong Pháp Tứ
Y, Đức Phật có dạy: "Y trí bất y thức". Nghĩa là chúng ta nên xét sự
việc theo trí tuệ bát nhã, chứ không xét theo tình thức, tình cảm thiên lệch
của con người. Tâm phân biệt sắc tướng đẹp hay xấu, tiếng nói dễ nghe hay khó
nghe, mùi hương dễ chịu hay khó chịu, món ăn ngon hay dở, bài văn khen tặng hết
lời hay phê phán nặng lời, thường dẫn con người đến phiền não và khổ đau. Tại
sao vậy? Bởi vì sắc tướng đẹp hay xấu thực sự không có tiêu chuẩn nhứt định,
tùy người đối diện, tùy cảm tình của con người mà thôi. Món ăn ngon hay dở cũng
không có tiêu chuẩn nhứt định, tùy theo con người đang đói bụng hay không mà
thôi. Khi đói lòng, một củ khoai cũng thấy ngon, nhưng khi no đủ quá rồi thì sơn
hào hải vị cũng chẳng ngon bằng một lọ tương! Khen tặng hay phê phán cũng không
có tiêu chuẩn nhứt định, tùy theo con người đang nịnh bợ, tâng bốc để thủ lợi,
hay đang quạu quọ vì không còn hưởng lợi, như lời giao kết trước đây nữa mà
thôi.
Người nào hiểu
được như vậy, thực tập đúng pháp môn thiền định, không để cho những tình thức phân
biệt dẫn dắt đến chỗ sai lạc, đến chỗ phiền não và khổ đau, người đó đạt được
"trí tuệ bát nhã". Nói cách khác, trí tuệ bát nhã là trí tuệ phát
sanh do tâm "bất tùy phân biệt", do công phu trì giới, tu tập thiền
định mà hiện ra. Trí tuệ bát nhã khác với trí tuệ của thế gian do công phu học
tập trong học đường mà đạt được, thể hiện qua các bằng cấp cao thấp. Trí tuệ
bát nhã là trí tuệ sẵn có nơi tất cả mọi con người, không phân biệt già trẻ,
lớn bé, nghèo giàu, nam nữ, xuất xứ, học thức, thân sơ, thương ghét, dân tộc
hay tôn giáo gì cả. Do sự lắng lòng cho thanh tịnh, không tham lam, không sân
hận, không si mê, chúng ta sẽ đạt được "trí tuệ bát nhã". Như vậy
chính là "y trí bất y thức".
4) Trong Pháp Tứ
Y, Đức Phật có dạy: "Y liễu nghĩa, bất y bất liễu nghĩa". Nghĩa là chúng
ta chỉ nên căn cứ theo những sự việc có ý nghĩa, những điều nào rõ ràng, minh
bạch, chứ đừng chạy theo những sự việc mơ mơ hồ hồ, những chuyện không có căn
cứ vào đâu cả. Thí dụ như chúng ta thường nghe một câu chuyện truyền miệng, rồi
vội vàng kết luận là người này tốt, người kia xấu, người này phải, người kia
quấy. Hoặc những tin đồn dĩa bay xuất hiện, thần thánh hiện ra nơi này nơi khác,
có người thi triển thần thông phép lạ chữa hết bệnh nan y, không thể kiểm chứng
được, chúng ta không cần quan tâm. Vã lại, những câu chuyện như vậy không có ích
lợi gì cho việc tu tâm dưỡng tánh, chỉ làm loạn tâm chúng ta mà thôi.
Đối với những
chuyện thị phi trên thế gian này, chúng ta không có thời gian, không có khả
năng, không có hoàn cảnh, không có điều kiện, để tìm hiểu sự thực, đã vội vàng kết
luận, nhứt định không đúng vậy. Đối với những sách gọi là kinh Phật, chúng ta
cũng cần nên dè dặt. Kinh Phật liễu nghĩa có nội dung giảng dạy 37 phẩm trợ đạo,
để giúp con người tiến bước trên con đường giác ngộ và giải thoát. Kinh Phật liễu
nghĩa có nội dung giảng dạy lý nhân quả, lý vô thường, vô ngã, chơn không diệu
hữu, để giúp con người thoát ly phiền não và khổ đau. Những cuốn sách có nội
dung: cúng sao giải hạn, cầu gì được nấy, bói toán mê tín, tin tưởng thánh thần,
cầu nguyện van xin, tình duyên gia đạo, coi phong thủy, xem nhà cửa, chọn đất
đai, đều không phải là kinh điển ghi lời Đức Phật dạy. Vấn đề này còn có phần tế
nhị, bởi vì Đức Phật thuyết pháp tùy theo căn tánh của chúng sanh, cho nên kinh
điển có quyền có thực, có hiển có mật. Kinh Phật vô lượng nghĩa, không có cao
thấp, tùy theo công phu tu học đến đâu, con người hiểu kinh Phật đến đó.
* * *
Tóm lại, để kết
thúc bài này, chúng tôi ghi lại hai câu sau đây của Thiền sư Hoàng Bá:
Nhược bất nhứt
phiên hàn triệt cốt
Tranh đắc mai hoa phốc tỷ hương.
Tranh đắc mai hoa phốc tỷ hương.
Nghĩa
là: "Nếu không một phen sương thấm lạnh. Hoa mai đâu nở ngát hương
thơm". Sau khi trải qua một mùa đông lạnh thấu xương, hoa mai mới hội đủ thời
tiết nhân duyên để nở rộ và tỏa mùi hương thơm ngát khắp nơi nơi. Cũng vậy, chúng
ta cần phải trải qua những thử thách cam go của cuộc đời, mới có được bài học nhẫn
nhục, nhẫn mà không thấy nhục. Cổ nhân có dạy: "Một sự nhịn chín sự
lành". Hiểu đạo rồi, chúng ta có thể nói: "Một sự nhịn muôn vạn sự
lành". Con người chỉ học được và nếm được chút hương vị từ bi sau khi trải
qua những giai đoạn khổ đau của cuộc đời. Khi nào bắt đầu thấy được giữa tuyết
trắng và bùn nhơ không khác, không có cái gì xấu, không có cái gì đẹp, lúc đó con
người bắt đầu biết nhìn sự vật với tâm bất tùy phân biệt, cũng là lúc con người
hiểu được và hành được tâm đại bi. Người có tâm đại bi tức là không có tâm phân
biệt, không có tả không có hữu, không có bạn không có thù, không có thân không có
sơ, không có thị không có phi, không có thương không có ghét. Tuy nhiên tâm đại
bi không phải là vô tri, mà chính là sức mạnh mầu nhiệm đem lại an lạc và hạnh
phúc cho cuộc đời.
Hiểu được rõ ràng
thế nào là "vô ngã", thế nào là "con người chân thật", chúng
ta mới tìm được an lạc và hạnh phúc trên cõi đời này. Hơn thế nữa, chúng ta cần
phải trải qua nhiều thăng trầm của cuộc đời, mới nhận thấy được những lời dạy
của đức Phật không dành riêng cho bất cứ ai sống trên đời này. Không phân biệt tôn
giáo, không phân biệt sắc tộc, bất cứ người nào thực tâm lắng nghe, lắng lòng suy
nghĩ, đem những lời dạy quí báu đó áp dụng trong cuộc sống. Nhứt định người đó
sẽ sống một cuộc đời an lạc và hạnh phúc với "con người chân thật"
của chính mình vậy. []
VP. PHẬT-HỌC TỊNH-QUANG CANADA
lllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll