Thân phận của Đại Tá Cao Văn Viên
trong cuộc đảo chính 1-11-1963
Tác
giả bài viết dưới đây là Ông Đặng Kim Thu, cựu SVSQ/TVBDL/K19, cựu tùy viên
của Đại Tướng Cao Văn Viên, cựu quận trưởng quận Chợ Gạo.
THÂN PHẬN CỦA ĐẠI TÁ CAO VĂN VIÊN TRONG CUỘC ĐẢO CHÁNH 1-11-1963.
Từ
đơn vị tác chiến (tiểu đoàn 41 BĐQ), tôi được lệnh về làm Sĩ quan Tùy Viên
cho Đại Tướng Cao văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng vào cuối năm 1966. Vì tôi
không có nhà ở Saigon nên ông bà Đại Tướng cho tôi tạm ở trong tư dinh thời
gian đầu.
Với
công việc hoàn toàn mới lạ, nhiều bỡ ngỡ, cộng thêm sự gò bó ở trong dinh của
Đại Tướng, mới đầu tôi hơi nản lòng, nhưng nhờ sự giúp đỡ, chỉ dẫn tận tình
của người tiền nhiệm của tôi là Quách tinh Cần K20/TVBQGĐL, và sự cởi mở của
ông bà Đại Tướng nên tôi cảm thấy an tâm đôi chút.
Những
ngày đầu về ở trong dinh của Đại Tướng, cứ sau bữa cơm tối ông xuống phòng
tùy viên chỉ rõ cách sinh hoạt trong nhà, cách tiếp nhận đìện thoại từ bên
ngoài gọi vào, an ninh vòng ngoài, an ninh vòng trong, và v.v…
Ông
bảo tôi:
-
Thông thường các tướng lãnh khác tôi đều tiếp họ tại văn phòng, ngoài giờ làm
việc tôi không tiếp ai ở nhà riêng cả, nếu có vị tướng tá nào muốn gặp tôi
ngoài giờ làm việc, mà không có hẹn, chú không được mở cổng, mà phải báo tôi
trước để tôi quyết định có tiếp họ hay không, đặc biệt chú phải quan sát, xem
vị tướng đó có đem theo lính hộ tống hay không. Trong mọi trường hợp chú đừng
cho lính hộ tống vào bên trong dinh, cổng phải luôn luôn khóa chốt . Nhưng
đặc biệt có hai vị cựu tướng lãnh khi tới nhà muốn gặp tôi bất cứ lúc nào,
chú cũng mở cổng mời vào phòng khách rồi báo tôi ra tiếp, không cần phải hỏi
tôi trước, hai vị đó là trung tướng Trần văn Đôn và trung tướng Tôn thất
Đính. Mà chú có bao giờ thấy hai vị tướng đó chưa?
Tôi
trả lời “dạ chỉ biết qua hình ảnh trên báo chí”. Ông bảo: “Cũng tốt, vậy thì
ráng nhận diện nếu hai vị đó tới”.
Xong
ông nhìn tôi thấy có vẻ như tôi muốn tìm hiểu lý do nào mà hai ông cựu tướng
này được đại tướng ưu ái như vậy? Ông nói thêm: ”chú muốn biết tại sao tôi
đối xử với hai ông đó đặc biệt như thế chứ gì, được rồi để mai tôi kể cho chú
nghe vì mai là chúa nhật có nhiều giờ rảnh hơn”.
Hôm
sau ăn cơm trưa xong ông xuống phòng tôi và bắt đầu kể:
“Ngày
1 tháng 11 năm 1963 là ngày Lễ Các Thánh, quân nhân, công chức nghỉ buổi sáng
khoảng 10 giờ sáng tôi được điện thoại của chánh văn phòng thiếu tướng Khiêm
mời vào Bộ Tổng Tham Mưu họp ở phòng họp số 1, và phải có mặt trước 1 giờ.
Tôi tới lúc 1 giờ kém 10 phút, thấy có đông các đơn vị trưởng sẵn đó rồi,
nhìn mặt toàn là các sĩ quan thân tín của ông Diệm. Đúng 1 giờ. hai quân cảnh
ở ngoài đóng cửa phòng họp và khoá lại, mọi người trong phòng ngơ ngác nhìn
nhau, đại tá Lê Quang Tung nói lớn:
-
Họp hành khỉ mẹ gì, ai chủ toạ phiên họp sao chưa tới mà họ khoá cửa nhốt
mình rồi, chuyện gì đây?
Vài
phút sau đó có tiếng mở cửa, đại úy Nhung cận vệ của trung tướng Dương văn
Minh đứng ngoài cửa nói với vào:
-
Mời đại tá Lê quang Tung – Lực Lượng Đặc Biệt và đại tá Cao văn Viên Nhẩy Dù
lên lầu gặp trung tướng Dương văn Minh.
Vì
đại tá Tung ngồi gần cửa nên bước ra trước, tôi ở trong xa cửa hơn nên đi ra
sau. Khi tôi ra khỏi phòng họp thì nhìn thấy đại tá Tung đã bị đại úy Nhung
còng tay dẫn xuống xe, còn tôi cũng bị 1 sĩ quan khác còng nhưng mới vừa bị
còng 1 tay thì tình cờ thiếu tướng Tôn thất Đính trên lầu đi xuống chợt thấy
vậy, ông bảo tháo còng tôi ra, rồi sĩ quan đó cùng tướng Đính dẫn tôi lên lầu
gặp trung tướng Minh.
Tướng
Minh nói:
-
Hôm nay “moi” và một số các tướng lãnh đảo chánh ông Diệm “toi” nghĩ sao?
Tôi
trả lời:
-
Chuyện quan trọng như vậy mà tới giờ này trung tướng mới cho tôi biết thì tôi
đâu có quyết định được gì.
Lúc
đó trung úy Trương (hay Trần) Tự Lập sĩ quan tùy viên của trung tướng Minh
lăm le khẩu súng carbine chĩa vào lưng tôi như sẵn sàng bắn tôi. Anh ta hỏi
tôi:
-
Đại tá có theo Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng không?
Tôi
đáp:
-
Tinh thần của quân nhân thuộc binh chủng nhẩy dù không trả lời trước áp lực.
Thiếu
tướng Đính thấy vậy bảo tên trung úy Lập đừng hỗn với cấp trên, rồi tướng
Đính dẫn tôi về lại phòng số 1 đóng cửa lại.
Vài
vị sĩ quan đang bị nhốt chung trong phòng tới hỏi tôi chuyện gì vậy? Tôi nói
họ đảo chánh Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Có người hỏi: “còn đại tá Tung đâu? Tôi
nói “bị còng dẫn đi chỗ khác rồi”.
Khoảng
15 phút sau tôi lại bị dẫn lên gặp Trung tướng Minh lần nữa, lần này Trung
tướng Minh nói với tôi:
-
Có 1 tiểu đoàn nhẩy dù theo “Chiến Đoàn Vạn Kiếp” của trung tá Vĩnh Lộc từ Bà
Rịa về tới Saigon, nhưng không chịu tấn công vào Dinh Gia Long, đòi phải được
liên lạc trực tiếp với “toi”, vậy nếu “toi” chịu làm 2 việc như sau: Thứ nhất
tuyên bố theo Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, thứ hai ra lệnh cho tiểu đoàn
nhẩy dù ở Bà Rịa về tấn công vào Dinh Gia Long, khi thành công “moi” gắn lon
thiếu tướng cho “toi” liền.
Tôi
trả lời rằng chuyện của trung tướng làm, tôi không chống đối, nhưng bảo tôi
phản lại “thầy” tôi thì tôi không làm, trung tướng thông cảm cho tôi (lời
người viết: xin nói rõ thêm, trước khi chỉ huy lực lượng nhẩy dù, đại tá Viên
là chánh Võ Phòng rồi Tham Mưu Trưởng Biệt Bộ Phủ Tổng Thống).
Tôi
được dẫn trả lại phòng họp số 1, các vị sĩ quan trong phòng lại hỏi, tôi trả
lời chưa hết thì chánh văn phòng của thiếu tướng Khiêm xuống dẫn tôi lên văn
phòng giữ riêng tôi ở đó.
Sau
khi đảo chánh thành công tôi được cho về nhà, rồi hằng ngày tôi phải lên Bộ
Tổng Tham Mưu chờ lệnh. Độ 5, 6 ngày sau, trung tướng Khiêm “lên trung tướng
ngày 2 tháng 11 năm 1963” tự ý quyết định cho tôi trở về chỉ huy Lữ đoàn nhẩy
dù như cũ, còn các vị sĩ quan bị nhốt chung với tôi đa số bị giải ngũ hoặc bị
hạ tầng công tác.
Rồi
sau đó không lâu tôi được trung tướng Đôn cho biết: sau khi tôi từ chối lời
yêu cầu của trung tướng Minh thì trung tướng Minh bàn với trung tướng Đôn
định đưa tôi theo số phận của đại tá Lê quang Tung, nhưng trung tướng Đôn
không đồng ý và nói rằng:
-
Trước khi tiến hành cuộc cách mạng, anh (ông Minh) có hứa với chúng tôi hạn
chế tối đa việc gây đổ máu các sĩ quan cấp tá không ủng hộ chúng ta, anh đã
cho giết đại tá Hồ tấn Quyền, giết đại tá Lê quang Tung, bây giờ anh muốn
giết luôn đại tá Viên nữa sao? Hơn nữa dù “lui” không hợp tác với mình nhưng
“lui” đâu có chống mình mà giết “lui”.
Tôi
nghĩ dường như tướng Khiêm cũng biết ý định đó của tướng Minh nên mới ra lệnh
đem tôi lên văn phòng của ông giao cho chánh văn phòng là đại úy Phạm Bá Hoa
giữ riêng tôi ở đó, rồi ông Khiêm bảo: ”Ai muốn kêu đại tá Viên đi đâu phải
có lệnh của tôi mới cho đi”
Đấy
là 3 người ơn cứu tử tôi đó!”
VAI TRÒ CỦA ĐẠI TÁ CAO VĂN VIÊN TRONG CUỘC CHỈNH LÝ NGÀY 30-1-1964
Một
lần tôi theo Đại Tướng Viên ra Đà Nẵng thăm các đơn vị thuộc Quân Đoàn I. Tối
lại, ngủ ở Tòa Thị Chính Đà Nẵng, lúc đó trung tá Lê chí Cường gốc nhẩy dù
làm Thị Trưởng.
Đầu
hôm thời tiết còn nóng, thầy trò tôi chưa ngủ được nên Đại Tướng kể chuyện
Đảo Chánh, chỉnh lý cho tôi nghe. Giờ đây thì chuyện dù đã xa xưa, nhưng
thiết tưởng còn nhiều người chưa biết rõ, hoặc biết không chính xác, không
đầy đủ, nên tôi mạo muội thuật lại những gì Đại Tá Viên kể cho tôi nghe với
ước mong giúp quí vị độc giả đánh giá được 1 phần sự thực của 1 giai đoạn của
Đất Nước.
Nguyên nhân đưa đến cuộc chỉnh lý 30-1-1964
Đại
Tướng Viên kể rằng:
“Trong nội bộ các tướng lãnh: sau ngày Đảo Chánh 1-11-1963 thành công, trong hàng tướng lãnh trụ cột của cuộc đảo chánh có những bất đồng ý kiến về việc thành lập chính phủ mới, về việc sắp xếp nhân sự và quan trọng hơn là sự tranh công tranh quyền giữa các tướng với nhau, cho nên dẫn tới sự chia rẽ.
Ngoài
ra trung tướng Minh ỷ quyền là chủ tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng nên tỏ
ra độc đoán trong mọi quyết định.
“Chẳng
hạn như ông Minh muốn đưa ông Nguyễn Ngọc Thơ nguyên Phó Tổng Thống của ông
Ngô Đình Diệm ra làm thủ tướng, nhiều tướng lãnh không đồng ý, vì cho rằng
nguyên Phó Tổng Thống của chính phủ vừa bị lật đổ ra làm thủ tướng của chính
phủ mới thì thật là vô lý, nhưng ông Minh cứ làm theo ý ông.
“Về
phía Tòa Đại Sứ Mỹ thì ông Đại Sứ đề nghị với ông Minh nên cử ông Trần quốc
Bửu Chủ Tịch Tổng Liên Đoàn Lao Công ra lập chính phủ với lý do ông Bửu có
nhiều uy tín trong giới bình dân và hiện trong tay ông Bửu có hơn 20 ngàn đoàn
viên của Tổng Liên Đoàn Lao động là lực lượng hùng hậu sẽ hỗ trợ cho chính
phủ. Ông Dương văn Minh chẳng những không nghe mà còn ra lệnh cho thiếu tướng
Đỗ Mậu bắt giam ông Trần quốc Bửu với lý do rất mơ hồ.
Thêm
nữa, ông Minh lại gọi 2 người đã rời khỏi quân đội hồi năm 1955 đang lưu vong
bên Pháp (vì chống ông Ngô đình Diệm) trở về hợp tác, đó là thiếu tướng Nguyễn văn Vỹ và đại tá Trần đình Lan
(phòng2) trong quân đội Liên Hiệp Pháp. Đizều này có vài tướng trẻ mới được
thăng cấp như thiếu tưóng Nguyễn hữu Có, Đỗ Mậu, thiếu tướng Dương ngọc Lắm,
trung tướng Trần thiện Khiêm đều không đồng ý, bởi các vị này cho rằng ông
Nguyễn văn Vỹ và ông Lan đã lỗi thời và đã rời khỏi quân đội lâu rồi, không
còn thích hợp với quân đội hiện giờ nữa. Các ông Khiêm, Có, Lắm cho rằng,
hiện nay trong quân đội có nhiều cấp tá trẻ có nhiều năng lực và được đào tạo
chánh quy, cứ mạnh dạn giao việc cho họ, chứ cần gì phải gọi 2 người đó về
hợp tác.
Ông
Dương văn Minh chẳng thèm nghe mà vẫn cứ hành xử theo ý riêng mình dựa trên
tình cảm cá nhân.
“Phần
tôi (đại tá Cao văn Viên) thì mỗi ngày trình diện ở Bộ Tổng Tham Mưu, nghe
nói ông Minh định cho tôi giải ngũ, nhưng nhờ trung tướng Khiêm tự ý cho tôi
trở về nhẩy dù ngày 6-11-1963 mà không hội ý với ông Minh, vì việc này nằm
trong thẩm quyền của ông Khiêm.
Về
sau mới biết, sở dĩ ông Khiêm hành động như vậy vì ngày 5-11-1963, ông Minh
nói với ông Khiêm rằng đại tá Nguyễn chánh Thi ở Campuchia sắp về, ông Minh
sẽ cho ông Thi chỉ huy lại Lực Lượng Nhẩy Dù, điều này chính ông Khiêm không
muốn, nên hành động trước một bước, vì nếu để ông Nguyễn chánh Thi chỉ huy
nhẩy dù thì khi ông Khiêm muốn mưu đồ gì cũng không thể xử dụng lực lượng
nhẩy dù được vì ông Khiêm với ông Thi không thân nhau, vả lại cũng còn ngờ
vực không biết ông Thi còn ôm mối hận ngày 11-11-1960 cách 3 năm trước hay
không.
Ngày
8-11-1963 đại tá Nguyễn chánh Thi từ Nam Vang đi đường xe về tới Gò Dầu Hạ,
được ông Khiêm cho trực thăng đi đón về Tổng Tham Mưu, sau đó ông Khiêm cử
ông Thi làm chủ tịch Ủy Ban Điều Tra tài sản và tội ác của ông Ngô đình Cẩn,
thế là ông Thi trở ra miền Trung làm việc.
Từ
những việc như vậy đưa đến những xích mích giữa ông Khiêm và ông Minh, rồi
một ngày vào hạ tuần tháng 12-1963, ông Minh cử ông Khiêm đi công du qua Nhật
và Đài Loan, ở nhà ông Minh giao cho Trung tướng Lê văn Kim thay thế trung tướng
Khiêm giữ chức vụ Tham Mưu Trưởng Liên Quân (không làm lễ bàn giao), đến khi
ông Khiêm trở về thì ông Minh chỉ định ông Khiêm làm tư Lệnh Quân Đoàn III
chia bớt nhiệm vụ của trung tướng Đính đang kiêm nhiệm Bộ An Ninh. Thời gian
này Quân Đoàn III còn nằm trong trại Lê văn Duyệt Saigon chưa dời lên Biên Hòa.
Vậy là ông Khiêm bị hạ tầng công tác nên ông Khiêm trở nên bất mãn.
Nguyên
nhân bên ngoài
Ông
Dương văn Minh gây cho Đại Sứ Mỹ cú “sốc” đầu tiên là không nghe theo đề nghị
của Đại Sứ Mỹ đề cử ông Trần quốc Bửu làm thủ tướng mà ông Bửu còn bị bắt
giam với tội danh mơ hồ.
Sau
khi đảo chánh thành công, ông Minh thường liên lạc với đại sứ Pháp ở Saigon,
hơn là đại sứ Mỹ, và có vài lần ông Minh mời Đại Sứ Pháp đến dinh “Hoa lan”
của ông Minh dùng cơm tối, có sự hiện diện của ông Đôn, ông Kim, ông Xuân mà
không có sự hiện diện của viên chức Mỹ nào cả. Việc này không qua khỏi cặp
mắt “cú vọ” của cơ quan CIA ở Saigon khiến họ đâm ra hoài nghi. Ngoài ra mỗi
khi có việc phải giao tiếp với viên chức của toà đại sứ Mỹ và Bộ Tư Lệnh
M.A.C.V, các ông Minh, Đôn, Xuân, Kim chỉ nói toàn tiếng Pháp mà không nói 1
câu tiếng Anh nào, điều này cũng gây khó chịu và tự ái đối với các viên chức
Mỹ không ít, và họ nghĩ là các tướng có khuynh hướng thân Pháp.
Tổng
hợp những chuyện kể trên đưa đến cuộc chỉnh lý ngày 30-1-1964.
Chỉnh lý ngày 30-1-1964
Chiều
ngày 29-1-1964 tướng Khiêm mời tướng Khánh ở Đà Nẵng về Saigon, nói có chuyện
cần bàn với tướng Khánh, rồi tướng Khiêm gặp tôi (Đại tá Viên) chỉ thị cho
tôi chuẩn bị lực lượng nhẩy dù đi bắt 5 vị tướng: Đôn, Kim, Xuân, Đính, Vỹ và
người thứ 6 là thiếu tá Nhung (người đã giết ông Ngô đình Diệm và ông Ngô
đình Nhu), thiếu tá Nhung đang ở trong nhà trung tướng Dương văn Minh.
Tôi
đề nghị với trung tướng Khiêm nên giao người khác đi bắt ông Đôn và ông Đính,
chứ tôi rất khó xử nếu phải đi bắt 2 người mà cách đây 3 tháng đã là ân nhân
cứu tử tôi. Trung tướng Khiêm thấy đề nghị của tôi hợp lý nên giao cho tiểu
đoàn 2 TQLC lúc đó do thiếu tá Cổ Tấn Tinh Châu làm
TĐT đi bắt tướng Đôn và tướng Đính.
Lệnh
tổng quát của trung tướng Khiêm cho tôi và thiếu tá Châu là không được liên
lạc hoặc tiếp xúc với bắt cứ ai cho đến khi hoàn thành nhiệm vụ.
Thời
gian này tất cả mọi đơn vị muốn vào lãnh thổ Biệt Khu Thủ Đô phải có lệnh của
Tư Lệnh QĐIII, và riêng TĐ2/TQLC vì đang đóng quân bên ngoài lãnh thổ Biệt
Khu Thủ Đô nên Tr/t Khiêm ký sự vụ lệnh giao cho 1 đại úy thuộc QĐIII đem đến
cho TĐT/TĐ2/TQLC để di chuyển tiểu đoàn vào BKTĐ mà không bị ngăn cản.
Tr/t
Khiêm ra lệnh cho thiếu tá Phạm bá Hoa chuẩn bị 1 xe dodge truyền tin để theo
dõi việc đi bắt 5 ông tướng mà chính t/t Hoa phải trực máy truyền tin.
Giờ
xuất phát đi bắt là 23 giờ và các đường giây điện thoại ở nhà 5 ông tướng đã
bị ông Khiêm cho lệnh cắt đứt hết rồi, không liên lạc được với ai cả.
Đúng
23 giờ tôi được lệnh xuất phát để bắt 3 ông tướng: Mai hữu Xuân, Lê văn Kim
và Nguyễn văn Vỹ, rồi sau cùng đến bắt th/t Nguyễn văn Nhung tại nhà của ông
Dương văn Minh.
Tiểu
đoàn 2/TQLC được giao nhiệm vụ đi bắt 2 ông tướng Tôn thất Đính và Trần văn
Đôn, cả 2 đơn vị xuất phá cùng một lúc.
Đến
khoảng 2 giờ sáng 5 vị tướng: Đôn, Kim, Xuân, Đính, Vỹ được đưa vô Bộ Tổng
Tham Mưu, riêng th/t Nhung thì tôi đưa về trại Hoàng Hoa Thám bản doanh của
lữ đoàn nhẩy dù.
Trung
tướng Nguyễn Khánh ở Đà Nẵng được trung tướng Khiêm mời về Saigon từ chiều,
đang ở nhà chờ, đến bấy giờ mới được tướng Khiêm mời vào BTTM cho biết: ”Nhiệm
vụ của tôi (tướng Khiêm) tới đây đã xong, phần còn lại tôi giao cho anh
(tướng Khánh) chuẩn bị sáng mai anh họp báo.
Tướng
Khánh nói: ”công của anh thì anh làm luôn đi”. Tướng Khiêm vẫn khước từ và
gợi ý với tướng Khánh, khi họp báo cứ nói các ông đó có ý định “trung lập
thân Pháp” nên mình phải ra tay ngăn chặn.
Trung
tướng Khánh liền gọi ra Quân Đoàn I Đà Nẵng dặn dò chuyện gì đó, rồi đại tá
Thi nghe được liền bay vô Saigon kịp sáng sớm vào TTM ngồi họp báo chung với
tướng Khánh, điều này khiến báo chí và dân chúng tưởng rằng ông Khánh và ông
Thi làm cuộc chỉnh lý, chứ không biết rằng trong đêm 1 mình tướng Khiêm đích
thân chỉ huy 2 vị sĩ quan cấp tá là tôi và thiếu tá Cổ tấn tinh Châu đi bắt 5
ông tướng và thiếu tá Nhung, xong rồi mới giao cho ông Khánh.
Tóm
lại ông Khiêm dọn sẵn “mâm cỗ” cho ông Khánh hưởng.
Hôm
sau 5 vị tướng bị chỉnh lý được phi cơ chở ra Đà Nẵng rồi vài ngày sau lại
chở vô quản thúc ở Đà Lạt. Ông Khánh lên làm thủ Tướng từ lúc đó.
Số
phận của th/t Nhung
Đại
Tướng Viên kể lại rằng:
Khi
tới nhà ông Minh để bắt t/t Nhung thì tôi gặp ngay tướng Minh, ông hỏi lệnh
của ai biểu bắt
Tôi
(đại tá Viên) trả lời: lệnh của Tr/t Trần thiện Khiêm.
Ông
Minh hỏi: ông Khiêm hiện giờ ở đâu?
Tôi
trả lời: thưa trung tướng tôi không biết.
Ông
Minh lại hỏi tiếp: vậy đại tá nhận lệnh của ông Khiêm từ lúc nào? lý do nào
bắt cận vệ của tôi.
Tôi
đáp: xin Tr/t hỏi ngay Tr/t Khiêm, còn tôi chỉ thi hành lệnh.
Liền
đó tướng Minh bốc điện thoại gọi ai đó, nhưng gọi không được, bèn dằn mạnh
điện thoại xuống bàn, thấy vậy tôi nói: ”điện thoại bị cắt giây rồi, trung
tướng không gọi được ai đâu”, tôi chào Tr/t Minh rồi dẫn th/t Nhung ra xe đưa
về trại Hoàng Hoa Thám.
Tại
đây tôi giao th/t Nhung cho sĩ quan an ninh nhẩy dù hỏi cung th/t Nhung, chủ
yếu ở điểm: ai ra lệnh giết Tổng Thống Ngô đình Diệm và ông cố vấn Nhu? Sĩ
quan an ninh nhẩy dù đưa giấy, viết bắt ông ta tự viết lời khai để làm chứng
cớ. Sau khi lấy lời khai xong, khuya ngày hôm sau sĩ quan an ninh (cấp bậc
trung úy) cho người vô phòng giam bóp cổ Nguyễn Nhung chết rồi lấy giây giầy ”saut”
của chính ông Nhung thắt vòng treo cổ Nguyễn Nhung lên trần nhà.
Đêm
đó tôi về nhà ngủ, sáng sớm hôm sau, sĩ quan trực ở trại Hoàng Hoa Thám điện
thoại báo cáo tôi: th/t Nhung thắt cổ tự tử chết rồi, tôi bảo sĩ quan trực
gọi bác sĩ Văn văn Của, lúc ấy là th/t y sĩ trưởng ND ráng cứu chữa ông ta coi
có thể sống lại được không?
Sau
đó y sĩ thiếu tá Văn văn Của điện thoại báo tôi: “Thưa đại tá hết phương cứu
chữa rồi” và ông Của làm bản báo cáo, y chứng xác nhận, thiếu tá Nhung đã
chết do thắt cổ tự tử”. Cuộc điện đàm này tôi có cài máy ghi âm để thủ thân
về sau này.
Trong
lời tự khai của th/t Nhung, ông ta nói rằng ông Dương văn Minh ra lệnh cho
ông ta giết ông Nhu trước khi đoàn xe về tới Bộ TTM, ngoài ra trên đường di
chuyển nếu có sự bất trắc gì xẩy ra thì chỉ nghe theo lệnh của thiếu tướng
Mai hữu Xuân mà thôi, khi ông Nhung đâm ông cố vấn Nhu thì bị ông Diệm chống
cự quyết liệt nên buộc lòng ông Nhung phải giết luôn ông Diệm.
Ngoài
ra khi khám tử thi của t/t Nhung, sĩ quan an ninh lấy ra được một mẩu giấy
viết sẵn giấu trong quần, định tìm cách gửi về nhà, nhưng chưa gửi được. Nội
dung như sau: ”Em ơi! Bọn Diệm, Nhu sống lại rồi,
chắc anh phải chết, nếu anh có mệnh hệ gì, em phải ráng nuôi các con cho khôn
lớn, anh đang bị nhốt trong lữ đoàn nhẩy dù”.
Lời
tự khai và cái thơ riêng gửi cho vợ của t/t Nhung được đưa cho trung tướng
Khánh giữ”.
Nhận
định riêng của người viết:
Về
cái chết của thiếu tá Nhung, tôi nghĩ rằng vị sĩ quan an ninh nhẩy dù không
dám tự ý hành động, mà phải có lệnh của 1 trong 3 vị: tuớng Khánh, tướng
Khiêm hoặc đại tá Viên? Nhiều lần tôi muốn hỏi đại tướng Viên nhưng lại rụt
rè không dám hỏi vì sợ tướng Viên giận và cho rằng tôi tò mò.
Theo
tôi cuộc chỉnh lỷ 30-1-1964 chắc chắn phải có bàn tay “phù thủy” của Mỹ thúc
đẩy cho tướng Khiêm thực hiện, mà nguyên nhân chánh là do trung tướng Dương
văn Minh làm phật lòng người Mỹ, nhưng ông Minh không bị loại vì lúc bấy giờ
dân chúng và khối phật giáo Ấn Quang vẫn còn xem ông Minh như người hùng
”cách mạng” nếu loại hẳn ông Minh sợ e có xáo trộn xã hội và sợ thượng toạ
Thích trí Quang sách động Phật tử “xuống đường” ủng hộ ông Minh. Còn 5 ông
tướng bị chỉnh lý vì thân tín với ông Minh nên bị làm vật tế thần, bị chụp
lên đầu cái mũ ”trung lập thân Pháp”, để chặt hết tay chân của ông Minh, biến
ông Minh thành “con cua bị gẫy càng” ngồi đó nhìn ông Khánh tung hoành.
Phụ
chú:
Những
điều tôi thuật lại cho quý độc giả trên đây là tôi được nghe đại tướng Viên
kể lại lúc tôi đang là sĩ quan tùy viên của ông.
Sau
này vào tháng 8 năm 2004, tôi từ Cali qua Virginia thăm đại tướng Viên trong
1 nursing home, tình cờ có đại tướng Khiêm tới, ông Viên, ông Khiêm và tôi
cùng ngồi nói chuyện chung, đây là dịp may hiếm có, tôi hỏi đại tướng Khiêm
vài điều mà tôi ấp ủ từ lâu vì không biết hỏi ai cho chính xác.
Tôi
hỏi:
-
Thưa đại tướng, em nghe nói ngày đảo chánh 1-11-1963 có 1 người Mỹ ở trong
phòng của đại tướng ngay từ giờ phút đầu để theo dõi cuộc đảo chánh, em muốn
biết lời đồn đó có đúng không?
Đại
tướng Khiêm nói:
-
Lời đồn đó đúng, người Mỹ đó là trung tá Conein, ông ta ở trong 1 phòng nhỏ
sát phòng làm việc của tôi sau tấm vách ngăn mà không hề bước qua phòng tôi
trong thời gian tiến hành đảo chánh. Tôi cho chú biết thêm, ông Conein này là
1 sĩ quan trưởng của 1 toán tình báo Mỹ đã từng nhẩy dù xuống vùng Việt Minh
kiểm soát ở miền Bắc, Việt Nam năm 1945 để giúp Hồ chí Minh đánh Nhật, ông ta
là người biết nhiều về Hồ chí Minh và mặt trận Việt Minh.
Tôi
hỏi tiếp :
-
Thưa đại tướng, em được biết, sau khi đại tướng làm cuộc chỉnh lý ngày 30-1-1964
thiếu tá Nhung đã khai, ông Minh ra lệnh cho ông ta giết ông Diệm, ông Nhu,
lời khai đó chân thật không? Liệu sau lưng ông Minh có 1 thế lực nào khác
thúc đẩy ông Minh làm chuyện đó không?
Đại
tướng Khiêm trả lời:
-
Chú nghe kỹ tôi nói đây: ”trước ngày đảo chánh (1-11-1963) tôi đưa ra 1 điều
kiện tiên quyết với ông Minh, liên quan đến Tổng Thống Diệm như sau: phải bảo
đảm sinh mạng Tổng Thống Diệm và để T/T Diệm bình an xuất ngoại. Ông Minh và
ông Kim đều đồng ý, sở dĩ có ông Kim vì mới đầu ông Kim có 1 nhóm riêng cũng
âm mưu đảo chánh, về sau 2 nhóm mới kết hợp lại.
Khi
biết ông Diệm, ông Nhu bị giết, lúc ấy tôi mới biết luôn đại tá Quyền, đại tá
Tung và em của đại tá Tung là Lê quang Triệu cũng bị giết, còn ông này (ông
Khiêm vừa nói vừa nhìn qua ông Viên) cũng bị còng tay, may mà ông Đính thấy
kịp chứ không thì cũng theo Hồ tấn Quyền và Lê quang Tung rồi (ông Viên và
ông Khiêm cùng cười).
Ông
Khiêm nói tiếp:
-
Tôi ở văn phòng của tôi trên lầu. Còn ông Minh, ông Kim, ông Đôn ngồi ở phòng
của đại tướng Tỵ, lúc đó đại tướng Tỵ đang dưỡng bệnh, nên ông Đôn làm quyền
Tổng Tham Mưu Trưởng. Họ hành động lén lút, giấu không cho tôi biết rồi họ
quyết định với nhau tôi có hay biết gì đâu.
Chú
nghĩ coi: ông Diệm đã gọi điện thoại bảo cho xe đến đón ông về TTM, như vậy
nghĩa là ông đã đầu hàng rồi, tại sao lại giết người đầu hàng. Ông Minh, ông
Kim độc ác quá! Cho nên tôi bất mãn với 2 ông ấy từ lúc đó.
Còn
chú hỏi liệu có thế lực nào khác thúc đẩy ông Minh giết ông Diệm, tôi cho chú
biết thêm chi tiết này: khi ông Conein ở trong phòng nhỏ bước ra phòng tôi,
trung tướng Minh cho ông ta biết ông Diệm và ông Nhu chết rồi, ông Conein tỏ
ra tức giận không nói với ông Minh một lời, ông quay trở vào phòng và thốt
lên một câu: ”Do a terrible thing” rồi một lúc sau ông Coneil bỏ ra về. Thế
đó chú tự suy nghĩ”.
Tôi
cám ơn đại tướng Khiêm, rồi chúng tôi tiếp tục nói chuyện linh tinh khác suốt
cả buổi sáng hôm đó.
Thân phận của một Quốc Gia nhược tiểu là như vậy.
Cựu
Sĩ quan tùy viên Đặng kim Thu
|