TÔN GIÁO LÀ MÊ TÍN - NHỒI SỌ -
GẠT GẪM TÍN ĐỒ U MÊ
SATURDAY 2016.6.18
Các bài viết có đăng trong
rải nước thánh dõm - bọn giặc nhà thờ cuồng tín -
lưu manh - độc ác - gạt gẫm - mê tín dị đoan -
Ý NGHĨA LỄ CẦU
NGUYỆN
TÔN GIÁO LÀ MÊ
TÍN VÀ GẠT GẪM
- Nếu ai cầu cũng được như ý, thế giới sẽ loạn, nhân sanh đảo điên.
Không làm việc cầu giàu có. Không tu hành cầu vãng sanh. Không học hành cầu đỗ
đạt. Các bên thù nghịch cầu nguyện đối phương biến mất. Trái đất chỉ còn thú
vật, đất đá, cây cỏ!
Đó là
thảm họa của sự cầu nguyện phi chánh pháp!
- Trong chiến tranh thế giới 1 và 2, hai phe lâm chiến đều làm lễ cầu
nguyện long trọng, xin Thượng đế giúp phe mình chiến thắng đối phương. Thượng
đế bèn nghe theo lời cầu nguyện này, nên hai phe đều tả tơi thê thảm.
Đó là
thảm họa của sự cầu nguyện phi chánh pháp!
SATURDAY 2017.3.04
Kính thưa
Quí Vị độc giả bốn phương,
Hôm nay
VP.PHTQ.CANADA bàn về vấn đề tu hành đạt đạo là thế nào?
Các vị
Cao Tăng khi nhập diệt (chết) phải như thế nào mới gọi là đạt đạo theo quan niệm
của bá tánh?
Bá tánh trên thế gian thường thích chuyện thần thông, phép lạ, kỳ dị.
Chẳng hạn như:
làm phép cứu người chết sống lại, hô phong hoán vũ, trục hồn ma quỉ nhập
xác
Chẳng hạn như:
đi qua sông nước bằng chân không, biết chỉ chỗ chôn hài cốt của người
chết,
lạy tượng phật ngọc què cũng chạy được,
cầu nguyện van xin đức mẹ hay bồ tát quán âm bệnh gì cũng hết
Chẳng hạn như:
tượng đức mẹ khóc chảy máu mắt, chúa hiện ra trên vách tường,
bồ tát quán âm hiện ra trên mây,
tượng bồ tát quán âm từ biển Phú Yên ngoi lên, phù hộ dân làm ăn giàu
có,
trị bá bệnh
Chẳng hạn như:
giáo chủ các tôn giáo phải có hào quang, đi trong đêm không cần đèn
đuốc.
Chẳng hạn như:
giáo chủ bị đóng đinh chết thảm, hồn xác máu me bay thẳng lên trời và ba
ngày sau sống lại.
Chẳng hạn như:
giáo chủ khi chết phải đứng hay ngồi kết già, hương thơm xông khắp
phòng, chân tay mềm mại gọi là thoại tướng tốt
Chẳng hạn như:
cả đời không tắm, ngồi bàn chông, ngồi chảo dầu sôi.
(xem hình cuối trang)
Tất cả những chuyện tưởng tượng trên, các nhà ảo thuật đều làm được,
nghĩa là các chuyện giả, gạt gẫm mắt thế gian, chứ không thật.
Nên nhớ rằng:
khi đức Phật thành đạo nơi cội bồ đề, ngay trên thế
gian này, thân tướng bên ngoài không có gì khác lạ.
Cho nên, khi đức Phật đi đến chỗ năm anh em Kiều
Trần Như, không ai thèm tiếp.
Đến khi đức Phật thuyết giảng bài pháp đầu tiên,
Năm anh em Kiều Trần Như
giác ngộ liền đảnh lễ xin thụ giáo, làm các vị đệ tử đầu tiên.
giác ngộ liền đảnh lễ xin thụ giáo, làm các vị đệ tử đầu tiên.
Các vị đệ tử của đức Phật tự tu tự chứng.
Khi nghiệp quả, nghiệp báo (gọi chung là quả báo)
của từng cá nhân xảy đến,
đức Phật không cứu được
và chẳng có vị đệ tử nào than khóc, hay van xin,
cầu khẩn đức Phật.
Do đó, người đắc đạo, đạt đạo hay thành đạo là
người chuyển hóa được nội tâm.
Những người thân cận hay bá tánh chỉ cảm nhận được
khi người đắc đạo:
bọn giặc
nhà chùa hay bọn giặc nhà thờ
là
bọn ngu dốt đội lốt tu sĩ
bọn này không thông giáo lý - không hiểu chánh pháp
bọn lưu manh này sinh sống kiếm tiền
bằng cách truyền bá mê tín dị đoan - bất chấp thủ đoạn -
bày đủ trò cúng kiến - lễ lạy - ban phép thánh
bọn tu sĩ này cũng là con người làm sao có phép thánh
bọn này bị bệnh cũng phải uống thuốc,
đi bệnh viện
hết thuốc chữa, bọn này cũng ra nằm nghĩa địa hay vô lò thiêu
bọn này phạm pháp cũng bị kết án bỏ tù
bọn này súng bắn cũng chết
bọn này xe cán không chết cũng bị thương
có gì gọi là phép lạ - phép thánh đâu
tin bọn này là ngu
bọn này tâm địa độc ác dã man
bọn này không thông giáo lý - không hiểu chánh pháp
bọn lưu manh này sinh sống kiếm tiền
bằng cách truyền bá mê tín dị đoan - bất chấp thủ đoạn -
bày đủ trò cúng kiến - lễ lạy - ban phép thánh
bọn tu sĩ này cũng là con người làm sao có phép thánh
bọn này bị bệnh cũng phải uống thuốc,
đi bệnh viện
hết thuốc chữa, bọn này cũng ra nằm nghĩa địa hay vô lò thiêu
bọn này phạm pháp cũng bị kết án bỏ tù
bọn này súng bắn cũng chết
bọn này xe cán không chết cũng bị thương
có gì gọi là phép lạ - phép thánh đâu
tin bọn này là ngu
bọn này tâm địa độc ác dã man
không kể
sanh mạng bá tánh, tín đồ, tín hữu.
----- Forwarded Message -----
From: AnhKiet Le leanhkiet482@gmail.com
To: tuoitreVN@yahoogroups.com
Cc: tanthichnhu18@yahoo.com ; VP. PHẬT-HỌC
TỊNH-QUANG CANADA ; VP.PHTQ_CANADA@yahoo.ca
; VP.PHTQ.CANADA.2016@gmail.com ;
SAIGON_diendan@yahoogroups.com ;
DAKAO@yahoogroups.com ; testing2k@yahoogroups.com
; bao_chi@yahoogroups.com ;
tintuc_haingoai@yahoogroups.com
Sent: Wednesday, October 25, 2017, 11:09:50 PM EDT
Subject: Re: [tuoitreVN] BÁ TÁNH U MÊ - SƯ SÃI GẠT GẪM : giải thích qua đức tin
nơi thượng đế = dân chúng mất tin tưởng [2 Attachments]
tôn giáo là ma túy đó.
2017-10-25 21:12 GMT-05:00 'VP. PHAT-HOC TINH-QUANG CANADA' cutranlacdao@yahoo.com
[tuoitreVN] <tuoitreVN@yahoogroups.com>:
Đạo Phật Là Đạo Giác Ngộ
Đạo Phật là đạo của con người.
Đức Phật ra đời vì muôn loài,
trong đó chủ yếu là loài người.
Cho nên mọi hành động của Ngài đều nhắm đến con
người.
Đạo Phật dạy chúng ta phải thấy được
Chân Lý, đạt được lẽ thực,
nên nói tới đạo Phật là nói tới Đạo Giác Ngộ.
Tôi nhấn mạnh lại:
Đạo Phật là Đạo Giác Ngộ chớ không
phải đạo của Lòng Tin.
Lâu nay chúng ta nhìn đạo Phật có vẻ huyền bí nhiều
quá, mà đã huyền bí thì tăng trưởng lòng tin chớ không tăng trưởng trí
tuệ.
Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ,
mà muốn được giác ngộ thì
phải vào đạo bằng trí tuệ,
bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn
khác hơn được.
Phật tử khi bước chân vào đạo Phật,
quý vị thấy Phật có dạy chúng ta điều gì huyền bí
mầu nhiệm không?
Phật dạy chúng ta toàn những sự thật.
Ví dụ
Phật tử tại gia, Phật dạy phải giữ năm giới, rõ
ràng có gì cao siêu huyền bí đâu, chỉ là những lẽ thực.
Nếu chúng ta sống giữ được như thế thì
mình là một con người tốt,
hiện tại gây ảnh hưởng tốt với gia đình xã hội,
mai kia cũng được sanh nơi tốt.
Đó là lẽ thực chớ không có gì huyền bí cả.
Bởi vì Đức Phật là một con người thực,
chứng nghiệm lẽ thực,
cho nên những gì Ngài nói cũng là lẽ thực.
[]
On Sunday, October 22, 2017, 10:34:36 PM EDT, tan thichnhu tanthichnhu18@yahoo.com wrote:
Nếu không có lòng tin thì làm sao
giác ngộ . Trong kinh Kim Cang nói :
"tín tâm thanh tịnh tắc sanh
thực tướng"
quý vị nghĩ sao ?
Đã gửi từ iPhone của tôi
Đã gửi từ iPhone của tôi
Ngày 23 thg 10, 2017, vào lúc 07:13, 'VP. PHAT-HOC TINH-QUANG CANADA'
cutranlacdao@yahoo.com [DiendanDanToc] DiendanDanToc@yahoogroups.com; viết:
---- Forwarded Message -----
From: 'VP. PHAT-HOC TINH-QUANG CANADA'
cutranlacdao@yahoo.com [testing2k]
To: tan thichnhu tanthichnhu18@yahoo.com
Cc:
Sent: Monday, October 23, 2017, 9:38:29 AM EDT
Subject: [testing2k] Re: [DiendanDanToc] Đạo Phật Là Đạo
Lòng Tin
Quí vị hiểu thế nào là tín
tâm thanh tịnh chăng?
thế nào là thực tướng chăng?
thực tướng là gì mà có thể sanh?
Quí vị có lòng tin kiểu
nào để giác ngộ?
và giác ngộ cái gì?
VP.PHTQ.CANADA
llllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll
Giác Ngộ và Giải Thoát
TK Thích-Chân-Tuệ
Trên thế gian này, đạo Phật đã có mặt hơn hai ngàn năm trăm năm lịch sử,
khởi thủy từ Á châu truyền sang Âu châu và hiện nay đang phát triển mạnh mẽ tại
Mỹ châu và Úc châu. Song song với đà phát triển của khoa học hiện nay, dân
chúng ở các xứ văn minh và tiến bộ đang dần dần mất sự tin tưởng nơi các tôn
giáo chủ trương thần quyền, thiếu căn cứ khoa học, giải thích mọi sự mọi việc
qua đức tin nơi thượng đế mà thôi. Cùng với sự phát triển của khoa học, dân
chúng ở các quốc gia Âu Mỹ Úc ngày càng đối diện với các khủng hoảng tinh thần,
do nhiều áp lực, nhiều khó khăn, dồn dập xảy ra trong cuộc sống hằng ngày. Khoa
học ngày càng đáp ứng tối đa các nhu cầu, những tiện nghi vật chất của con
người. Trong khi đó, các tôn giáo hiện diện tại đây từ trước, không đáp ứng
được những nhu cầu tinh thần, những vấn đề tâm linh của con người.
Cho nên, dân chúng ở các quốc gia Âu Mỹ Úc đã và đang hướng về tìm hiểu
giáo lý của đạo Phật và thực hành những lời dạy của Ðức Phật trong đời sống
hằng ngày. Từ đó, họ tìm được sự an lạc và hạnh phúc, ngay trong đời sống đầy
dẫy những bất trắc và phiền não khổ đau. Họ phát tâm tu tập một cách tích cực,
dưới nhiều hình thức, tu sĩ hay cư sĩ tại gia, họ viết sách, dịch kinh Phật
Giáo để phổ biến cho mọi người cùng hiểu biết, để được giác ngộ và giải thoát.
Nghĩa là họ đến với đạo Phật bằng trí tuệ, chứ không phải chỉ bằng niềm tin mà
thôi.
Trong Kinh A Hàm, Ðức Phật có dạy:
"Tin tưởng Như Lai mà không hiểu Như Lai,
tức là phỉ báng Như Lai vậy".
Nghĩa là nếu chúng ta đến với Như Lai, tức là đến với Ðức Phật chỉ bằng
niềm tin, chỉ biết tin tưởng Ðức Phật như là một vị giáo chủ đầy quyền năng, có
thể ban phước như lời cầu nguyện của chúng ta, có thể ban cho chúng ta và gia
đình một cuộc sống bình an, như ý, mà không chịu học hiểu giáo lý, tìm hiểu
những lời dạy của Ðức Phật, để áp dụng vào đời sống hằng ngày, tức là chúng ta
phỉ báng Ðức Phật. Tại sao vậy?
Bởi vì, nếu cầu nguyện, khấn vái, van xin, nhưng không toại nguyện,
không công hiệu, không hữu hiệu, không hiệu quả, không kết quả như ý hoặc không
có được đáp ứng gì cả, chúng ta sẽ nghĩ là Ðức Phật không linh thiêng, niềm tin
không còn, dễ theo ngoại đạo.
Chắc chắn ai ai cũng biết: cuộc đời của các vị giáo chủ của các tôn giáo
trên thế gian này đều không có bình an một cách tuyệt đối, theo cái nhìn tầm
thường của chúng ta, các vị vẫn gặp chuyện bất trắc, vẫn bị người khác nhục mạ,
vu cáo, ám sát, bỏ tù, xử án, kết tội, thậm chí giết chết thê thảm như một tội
phạm hình sự! Như vậy, các vị giúp chúng ta được như ý, như lời cầu nguyện,
khấn vái, van xin của chúng ta bằng cách nào? Cuộc đời của Ðức Phật cũng gặp
những chuyện như vậy, cũng trải qua các giai đoạn của cuộc sống như mọi người
khác trên thế gian: sanh, già, bệnh, chết.
Như vậy, Ðức Phật cứu khổ thế gian này bằng cách nào? Bằng hình thức ban
phước theo lời cầu nguyện, van xin chăng? Bằng cách cứu độ cho những ai thờ
phượng chăng? Bằng cách cứu độ cho những ai tụng vài thời kinh, niệm vài câu A
Di Ðà Phật, hay đọc vài bài chú chăng?
Trong
Kinh Pháp Cú, Ðức Phật có dạy:
"Hãy
tự thắp đuốc lên mà đi, thắp lên ngọn đèn chánh pháp".
Nghĩa là tất cả chúng ta hãy tìm hiểu giáo lý của Ðạo Phật một cách
tường tận, rồi áp dụng vào đời sống hằng ngày. Hãy đem ngọn đuốc trí tuệ của
mình mồi với ngọn đuốc Chánh Pháp, để được giác ngộ và giải thoát, để được an
lạc và hạnh phúc ngay hiện đời. Ðức Phật Thích Ca đã trải qua những tháng năm
tu tập và giác ngộ ngay dưới cội cây bồ đề, trên thế gian này. Sau đó, Ðức Phật
sống trọn cuộc đời, trong cảnh giới an lạc và hạnh phúc, tự tại và giải thoát,
dù cho cuộc đời cũng gặp những sóng gió khó khăn, nhưng Ðức Phật không cảm nhận
phiền não và khổ đau như tất cả chúng sanh khác.
Vì tâm đại từ đại bi, thương tất cả chúng sanh trầm luân trong sanh tử,
Ðức Phật đem Chánh Pháp, là những điều Ngài đã giác ngộ được, giảng dạy trong
nửa thế kỷ, ví như để lại những bản đồ cho tất cả chúng sanh biết con đường,
biết phương pháp tu tập. Bất cứ ai áp dụng đúng đắn, kiên trì, đều được giải
thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi.
Toàn bộ Chánh Pháp của Ðạo Phật nhằm mục đích chỉ rõ cái khổ của cuộc đời, nguyên nhân gây ra đau khổ, tiếp theo chỉ rõ cảnh giới niết bàn tịch diệt và con đường dẫn chúng ta đến cảnh giới an lạc đó.
Trong kinh sách gọi đó là "Tứ Diệu Ðế", gồm có: khổ, tập,
diệt, đạo.
Ðó chính là cách Ðức Phật cứu độ chúng sanh, ban phước cho chúng sanh
vậy.
Do đó, chúng ta hãy tìm hiểu:
Tứ Diệu Ðế là gì?
Ðức Phật đã giác ngộ điều gì và giải thoát như thế nào?
1)
Ðiều trước tiên Ðức Phật giác ngộ: cuộc đời là khổ. Thực vậy, chúng ta
ai ai cũng đều công nhận cuộc đời "khổ nhiều vui ít". Những niềm vui
trong cuộc sống thực là hiếm hoi. Trái lại, những điều phiền não, đau khổ, bất
trắc, bất như ý, bất toại nguyện thì quá nhiều. Ngoài cái khổ vì thiếu ăn,
thiếu mặc của những người nghèo đói do thiếu phước báo, cái khổ đến với mọi
người trên khắp thế gian, không phân biệt già, trẻ, lớn, bé, nam phụ lão ấu,
địa vị, học thức, giàu nghèo, địa phương, sắc tộc, tôn giáo, vua chúa hay
thường dân, đời này hay đời trước. Cái khổ chung của tất cả mọi người trên thế
gian đó là những gì?
Ðó chính là chúng ta khổ vì: sanh, già, bệnh, chết. Chúng ta khổ vì sanh
ra trong cuộc đời dẫy đầy những chuyện bất như ý, khó khăn, đấu tranh, sóng gió
và gian nan, vì tuổi già sức yếu, đi đứng khó khăn, vì bệnh hoạn đau đớn triền
miên, vì cái chết đến bất ngờ, không như ý. Chúng ta muốn được luôn luôn bình
an, trẻ mãi không già, khỏe mãi không đau, sống mãi không chết, nhưng nào có ai
được như vậy đâu?
Chẳng những chúng ta khổ vì sanh, già, bệnh, chết, chúng ta còn khổ vì
xa lìa người thân thương, vì gặp những người không ưa, những kẻ oán thù, vì cầu
nguyện, van xin nhiều quá, mà chẳng được gì, vì ngũ ấm xí thạnh, nghĩa là cái
thân xác ngày một to béo nặng nề một cách khổ sở, và quan trọng hơn, chúng ta
khổ vì cái vọng tâm điên đảo đảo điên, cái vọng tưởng lăng xăng lộn xộn, thay
đổi từng giây từng phút, không lúc nào ngừng nghỉ, ví như con vượn chuyền cây,
như con ngựa chạy rong, như con trâu giẫm đạp lúa mạ của người.
Cái tâm ý điên đảo đảo điên, cái vọng tưởng lăng xăng lộn xộn, tạo tội
tạo nghiệp này, là nguyên nhân chính dẫn chúng ta vào vòng sanh tử luân hồi.
Làm sao hàng phục và an trụ được cái tâm ý này chính là trọng tâm của
đạo Phật.
Trong kinh A Hàm, Ðức Phật có dạy:
"Cuộc
đời là biển khổ,
Nước
mắt chúng sanh nhiều hơn bốn biển lớn".
Cuộc đời đầy dẫy những chuyện khổ đau, chúng sanh chìm đắm trong biển
khổ, khiến cho nước mắt trong nhiều đời nhiều kiếp có thể so sánh với nước bốn
biển lớn. Con người mãi mê đấu tranh, giành giựt, hận thù, bon chen, hơn thua
trong cuộc sống, do lòng tham lam, sân hận, si mê, mà quên đi những khổ đau, cho
đến khi nhắm mắt lìa đời, cũng chưa giác ngộ được. Ðó là nguyên nhân dẫn dắt
chúng ta vào vòng sanh tử luân hồi.
* * *
2)
Ðạo Phật nhận định cuộc đời là biển khổ, nhưng không đưa tới quan niệm tiêu
cực,
bi quan, yếm thế, chán đời. Ðức Phật dạy chúng ta nhận định như vậy để thức tỉnh, để tìm phương cách giải thoát, không còn chìm đắm trong những cơn vui giả tạm, ngắn ngủi, những danh vọng, quyền tước, vật chất của thế gian. Cũng như một vị thầy thuốc chẩn bệnh, định bệnh để tìm ra nguyên nhân gây bệnh và tìm cách chữa trị. Cho nên, ngay sau đó, Ðức Phật chỉ rõ nguyên nhân gây ra khổ đau.
bi quan, yếm thế, chán đời. Ðức Phật dạy chúng ta nhận định như vậy để thức tỉnh, để tìm phương cách giải thoát, không còn chìm đắm trong những cơn vui giả tạm, ngắn ngủi, những danh vọng, quyền tước, vật chất của thế gian. Cũng như một vị thầy thuốc chẩn bệnh, định bệnh để tìm ra nguyên nhân gây bệnh và tìm cách chữa trị. Cho nên, ngay sau đó, Ðức Phật chỉ rõ nguyên nhân gây ra khổ đau.
Trong Kinh Viên Giác, Ðức Phật có dạy:
"Con
người vì vô minh cho nên có hai thứ chấp:
chấp ngã và chấp pháp.
Ðó
là hai nguyên nhân chính gây
ra phiền não và khổ đau của cuộc đời".
Khi nào hiểu được một cách rõ ràng và phá trừ được hai nguyên nhân chính
gây ra khổ đau, chúng ta sẽ tìm được an lạc hạnh phúc thực sự trong cuộc sống
hiện tại.
Thế
nào là "chấp ngã"? Chấp ngã có hai phần: vật chất và tinh thần. Về vật
chất, chúng ta chấp cái thân xác tứ đại mấy chục ký lô này là "mình".
Về tinh thần, chúng ta chấp cái tâm suy nghĩ, tính toán, suy lường là chính
"mình". Nếu có người hỏi: chúng ta là ai? Chúng ta liền chỉ vào thân
mình và trả lời: Tôi đây nè! Thực ra, cái xác thân tứ đại giả tạm này đâu phải
là "mình". Cái xác thân tứ đại bao gồm những chất: đất, nước, gió,
lửa, tụ hội với nhau trong một thời gian, từ khi cha mẹ sinh ra, cho đến khi
chúng ta thở ra, mà không muốn hít vào nữa, thì ô hô tử vong! Thời gian đó ít
năm, nhiều năm, ngắn dài tùy theo nghiệp duyên của mỗi người. Người đời thường
gọi đó là: số mạng, định mạng, hay số mệnh, định mệnh. Có người được vài chục
năm. Có người chỉ trong hơi thở! Lúc đó, hơi thở trở về với gió, hơi ấm trở về với
vũ trụ, các chất lỏng như máu, mủ, nước tiểu trở về với nước, các chất cứng như
thịt, xương trở về với đất. Cái gì là "mình" đây? Còn lại chỉ là cái
xác không hồn, cái tử thi bất động. Cái xác thân tứ đại của chúng ta tan rã,
trở về với tứ đại của vũ trụ. Nói nôm na là: cát bụi trở về với cát bụi.
Thậm chí, ngay khi còn sống hiện nay, nếu chúng ta không vay mượn tứ đại
bên ngoài để bồi bổ từng ngày, từng giờ, từng phút, từng giây, thì chúng ta đâu
tồn tại được. Luôn luôn mượn không khí thở ra hít vào, lát lát mượn ly nước,
ngày ngày mượn vài ba chén cơm. Cái thân tứ đại muốn khỏe thì khỏe, muốn đau
yếu thì đau yếu, chúng ta không thể làm chủ nó như ý muốn của chúng ta được.
Vậy mà chúng ta cứ chấp chặt cái thân xác tứ đại là "mình", chúng ta
dành trọn cuộc đời để yêu mến, cung phụng, săn sóc nó, thì quả là chúng ta quá
mê muội, đang sống trong mộng tưởng, trong cơn mê, mà không biết đó thôi.
Chúng ta đã hiểu cái thân xác tứ đại không phải là mình, vậy còn cái tâm
suy nghĩ, tính toán, suy lường có phải là mình chăng? Thực ra, cái tâm đó cũng
không phải là "mình". Tại sao vậy? Bởi vì, có lúc chúng ta suy nghĩ
rất hiền lành, thánh thiện, muốn giúp đỡ mọi người, muốn bố thí cúng dường,
muốn trở thành người hoàn toàn tốt. Nhưng cũng có nhiều lúc, chúng ta tính
toán, suy lường, muốn hơn người khác cho thỏa lòng ganh tị, đố kỵ, muốn thấy
người khác suy sụp, gặp nạn cho thỏa lòng hơn thua, ganh ghét, tị hiềm. Vậy thử
hỏi chúng ta là người thiện hay bất thiện? Chúng ta là một hay là hai?
Dù là khởi tâm thiện, hay khởi tâm bất thiện, chúng ta cũng khổ đau. Lúc
tâm thiện khởi lên, muốn làm người tốt, muốn giúp đỡ người khác mà không được,
thí dụ chúng ta muốn cứu người thân bị bệnh nan y, thầy thuốc đã bó tay, chúng
ta sẽ đau khổ. Lúc tâm bất thiện khởi lên, muốn thấy người khác khổ đau, nguy
nan, khốn đốn, mà họ vẫn cứ bình an, chúng ta sẽ đau khổ. Ðàng nào chúng ta
cũng đau khổ cả! Lòng tự ái cao là một dạng của tâm chấp ngã. Do tâm tham ái,
chấp ngã một cách mù quáng, chúng ta đã, đang và sẽ tạo tội tạo nghiệp không
biết bao nhiêu trong nhiều đời nhiều kiếp. Ðó là nguyên nhân dẫn dắt chúng ta
vào vòng sanh tử luân hồi.
Thế
nào là "chấp pháp"? Chấp pháp cũng có hai
phần: vật chất và tinh thần. Về vật chất, chúng ta chấp mọi thứ có hình tướng
như cái nhà này, cái xe này là của mình. Về tinh thần, chúng ta chấp mọi thứ,
mọi việc, mình làm, mình nói, mình nghĩ, cái gì của mình cũng là đúng, là nhất.
Về phương diện vật chất, chúng ta đang sống trong mộng tưởng, cho là
cuộc đời này sẽ vĩnh viễn trường tồn, cho là những người thân sẽ mãi mãi ở bên
mình, cho là những của cải vật chất như nhà cửa, xe cộ, vàng bạc, cơ nghiệp
luôn luôn thuộc về mình. Cho nên, nếu người thân có ra đi, hoặc có mệnh hệ nào,
nếu của cải vật chất có bị mất mát hư hao, thì chúng ta sẽ đau khổ!
Về phương diện tinh thần, chúng ta thường chấp chặt ý kiến của mình là
đúng, việc mình làm là đúng, ai có ý kiến khác, ai làm khác là không đúng, là
sai. Chúng ta thường cho là người khác lúc nào cũng phải suy nghĩ giống như
mình, nên khi có người phát biểu khác đi, chúng ta khó chấp nhận được. Chúng ta
không thấy những lỗi lầm, sai trái của mình, cho nên đau khổ, bực bội, vì chỉ
thấy lỗi lầm của người.
Thí dụ trong gia đình, nếu người cha không nhận thấy lỗi của mình, chỉ
biết la mắng con cái vì chúng không theo ý muốn của mình, bất chấp ý kiến của
chúng, thì người cha đó chắc chắn sẽ phiền não đau khổ và làm cho mọi người
trong gia đình cũng phiền não đau khổ theo. Chúng ta nên biết hai thế hệ khác
nhau thì ý kiến, sự suy nghĩ, cảm giác đều khác nhau. Hơn nữa, chúng ta đừng
chấp chặt các quan niệm xa xưa, cổ lổ, lạc hậu, không còn hợp thời nữa. Cứ chấp
chặt như vậy chỉ đưa đến phiền não và khổ đau mà thôi. Chuyện vợ chồng cũng
vậy. Chuyện cộng đồng cũng vậy. Chuyện quốc gia xã hội, cho đến chuyện thế giới,
cũng không khác, chỉ vậy thôi. Khi bất cứ chuyện gì xảy ra, người nào, bên nào
cũng có một phần lỗi, không nhiều thì ít, không bên nào vẹn toàn, không người
nào toàn vẹn. Hiểu được như vậy, làm được như vậy, chúng ta sẽ bớt khổ đau
nhiều lắm.
Trong cuộc sống gia đình cũng như ngoài xã hội, điều quan trọng là chúng
ta phải biết quên mình vì người, thì mới có an lạc và hạnh phúc. Còn nếu tâm ý
quá ích kỷ, chỉ biết có mình, gia đình mình, đoàn thể mình, tôn giáo mình, cái
gì cũng vì mình hết trơn, thì chỉ có phiền não và khổ đau mà thôi. Muốn có một
gia đình hạnh phúc, người cha phải biết hy sinh, lo lắng mọi nhu cầu vật chất
lẫn tinh thần cho cả gia đình, người mẹ cũng phải biết hy sinh những vui thích
cá nhân, hòa hợp với nhịp sống chung của gia đình, con cái phải biết nhớ ơn
sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ, phải biết nghe lời dạy dỗ, phải biết báo
hiếu.
Trong một quốc gia có hai, ba, hoặc nhiều phe nhóm đấu tranh, kình chống
nhau kịch liệt, phe nào cũng muốn tiêu diệt phe kia, phe nào cũng cho mình là
đúng nhứt, là yêu nước nhứt, thì quốc gia đó khó có thể tiến bộ được, dân chúng
không thể sống trong an lạc và hạnh phúc được. Tại sao vậy? Bởi vì phe cầm
quyền làm được bất cứ việc gì, cũng bị phe chống đối phá hoại, ngăn trở, phỉ
báng, xuyên tạc. Chúng ta thường tự kỷ ám thị, không chịu nhìn nhận sự thật,
chỉ vì sự thật không theo như ý của mình, của gia đình mình, của phe nhóm mình,
của tôn giáo mình.
Trên thế gian này, người chủ muốn công nhân viên làm việc nhiều, nhưng
phát lương ít; ngược lại, công nhân viên muốn làm việc ít, nhưng lãnh lương
nhiều. Thế là đấu tranh và đau khổ! Trên thế gian này, người ta thường nhớ rất
kỹ đã làm ơn, giúp đỡ cho bất cứ ai, bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào; nhưng lại
không muốn nhớ bất cứ ai đã làm ơn, giúp đỡ mình. Trên thế gian này, trâu cột
ghét trâu ăn, được làm vua thua làm giặc, có ít xích ra nhiều, chuyện bé xé ra
to, chuyện có nói không, chuyện không nói có, lấy oán báo ân, ăn cháo đá bát,
được chim bẻ ná, được cá quăng nôm, khen mình khinh người, là những "chuyện
như thị", tức là những sự thực đương nhiên, không cần ngạc nhiên, nhiều
không thể kể hết được. Hiểu được như thế và đừng làm như thế, chúng ta sẽ mỉm
cười và bớt đau khổ nhiều lắm!
Chúng ta thường mơ ước, cầu nguyện cho cuộc đời được bình an, không sóng
gió. Nhưng làm sao có thể như vậy được? Thực ra, cuộc đời cũng giống như mặt
biển cả, sóng gió triền miên, khi nhiều sóng khi ít sóng, ít khi sóng lặng gió
yên, cơn sóng này qua đi, thì cơn sóng khác lại đến. Việc này chưa xong, thì
việc khác lại xảy đến. Ðiều quan trọng hơn cả là chúng ta cần nên biết áp dụng
Chánh Pháp, để ứng xử mọi sự mọi việc, với tâm thiền định, bình tĩnh, thản
nhiên, chấp nhận, thì chúng ta sẽ giảm bớt khổ đau. Do tâm tham ái, chấp pháp
một cách mù quáng, chúng ta đã, đang và sẽ tạo tội tạo nghiệp không biết bao
nhiêu, trong nhiều đời nhiều kiếp. Ðó là nguyên nhân dẫn dắt chúng ta vào vòng
sanh tử luân hồi.
* * *
3)
Sau khi chỉ rõ nguyên nhân của sự khổ đau, của sanh tử luân hồi, Ðức Phật chỉ bày
cảnh giới niết bàn, thường hằng, tịch diệt, bình yên, thanh tịnh, an lạc và
hạnh phúc cho những ai biết áp dụng Chánh Pháp vào đời sống hằng ngày.
Trong Kinh Ðại Bát Niết Bàn, Ðức Phật có dạy:
Chư
hành vô thường.
Thị
sanh diệt pháp.
Sanh
diệt diệt dĩ.
Tịch
diệt vi lạc.
Nghĩa là mọi sự mọi việc trên đời đều vô thường, không có gì tồn tại
vĩnh viễn, gọi là pháp sanh diệt. Tất cả mọi sự mọi việc sanh ra, rồi cũng sẽ
diệt đi, không có gì là vĩnh cửu, chuyện vui có tới rồi cũng đi, chuyện buồn có
đến rồi cũng qua, thời gian sẽ xóa tan tất cả mọi sự mọi việc. Chuyện vui hay
buồn đều làm tâm của chúng ta loạn động và bất an. Tâm của chúng ta dù khởi
niệm từ bi, hay khởi niệm sân hận, rồi cũng lặng đi, tất cả đều là các tâm niệm
sanh diệt. Chỉ có khi nào các tâm niệm sanh diệt như vậy diệt đi rồi, lặng mất
rồi, không còn nữa, chúng ta sẽ được sống trong cảnh giới an lạc hạnh phúc,
cảnh giới tịch diệt vi diệu.
* Trong Kinh A Di Ðà, Ðức Phật dạy: đó là cảnh giới của người đạt
được "nhất tâm bất loạn".
* Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Ðức Phật dạy: đó là cảnh giới của
người có tâm "bất tùy phân biệt", của người không còn tranh chấp thị
phi, phải quấy, hơn thua, đúng sai.
* Trong Kinh Tịnh Danh, hay Kinh Duy Ma Cật, Ðức Phật dạy:
đó là cảnh giới của người đạt được "pháp môn bất nhị", của người
không còn kẹt trong vòng đối đãi nhị biên, không còn thành kiến, định kiến,
thiên kiến, biên kiến, tà kiến, ác kiến, đoạn kiến, thường kiến.
* Trong Kinh Kim Cang, Ðức Phật dạy: đó là cảnh giới của người
đạt được "thân kim cang bất hoại", của người không còn kẹt vì các
hình tướng giả tạm bên ngoài, của người đạt được "thực tướng".
* Trong Bát Nhã Tâm Kinh, Ðức Phật dạy: đó là cảnh giới của người
đạt được "chư pháp bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất
giảm", hay là cảnh giới của người "hành thâm bát nhã và chiếu kiến
ngũ uẩn giai không".
* Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Ðức Phật có dạy: "Sanh diệt ký
diệt, tịch diệt hiện tiền".
Nghĩa là khi nào tâm sanh diệt tiêu mất, không còn nữa, thì cảnh giới
tịch diệt, tức là cảnh giới niết bàn hiện ra trước mắt. Cũng như khi nào mây
đen tan mất, thì trăng sáng hiện ra trước mắt. Cũng như khi nào phiền não và
khổ đau hết, thì an lạc và hạnh phúc hiện tiền. Nói một cách khác: "vọng
tâm tiêu hết, chân tâm hiện tiền". Thực là đơn giản, dễ hiểu như vậy.
Cảnh giới tịch diệt an lạc đó không dành riêng cho bất cứ ai, không
thuộc bất cứ tôn giáo nào, không thuộc bất cứ sắc dân nào, không thuộc bất cứ
thời đại nào. Bất cứ ai dẹp được một phần các tâm niệm sanh diệt, thì người đó
sống được một phần trong cảnh giới an lạc tịch diệt.
Cảnh giới này không thể nghĩ bàn, không thể dùng lời lẽ của thế gian để
diễn tả trọn vẹn được, ai thực hiện được, sống được trong cảnh giới đó, thì tự
người đó biết, cũng như người uống nước, nóng lạnh tự biết. Cảnh giới này còn
gọi là "đạo".
Sách có câu: "đạo bất khả ngôn thuyết". Nghĩa là không thể
dùng ngôn ngữ của thế gian này để diễn tả, để chỉ bày, để nói về
"đạo". Sách cũng có câu: "ngữ ngôn đạo đoạn". Nghĩa là khi
nói lên bằng ngôn ngữ thế gian thì đã mất "đạo" rồi.
* * *
4)
Ðến đây, Ðức Phật chỉ dạy những phương pháp, những pháp môn để đạt được
"đạo", tức là đạt được cảnh giới niết bàn tịch diệt đó. Vấn đề hiện giờ là: làm
sao để các tâm niệm sanh diệt đó không còn khởi lên nữa, hoặc các tâm niệm sanh
diệt đó có khởi lên, làm sao cho nó lắng xuống, tiêu mất? Nói cách khác: Làm
sao hàng phục và an trụ được cái tâm ý này chính là trọng tâm của đạo Phật.
Toàn
bộ giáo pháp của đạo Phật, chia ra 37 phẩm, gồm có: tứ niệm xứ, tứ như ý túc, tứ
chính cần, ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề phần và bát chánh đạo. Chánh Pháp gồm
37 phẩm này giúp chúng ta đạt được "đạo" bằng trí tuệ, bằng sự quán
chiếu, nhận thức được chân lý chứ không phải chỉ bằng niềm tin đơn giản mà
thôi.
* * *
"Tứ
Niệm Xứ" là bốn chỗ cần quán niệm luôn luôn. Quán thân bất tịnh, nghĩa là luôn
luôn nhớ rằng thân xác tứ đại này chứa toàn những thứ nhơ nhớp, những thứ bất
tịnh bên trong. Quán thọ thị khổ, nghĩa là luôn luôn nhớ rằng thọ nhận nhiều
cảm giác, nhiều tự ái, ai nói gì cũng chấp chặt, thì tức nhiên là khổ. Quán tâm
vô thường, nghĩa là luôn luôn nhớ rằng tâm ý con người đổi thay vô chừng, không
cố định, nay vầy mai khác, chớ có chấp chặt làm chi cho khổ! Quán pháp vô ngã,
nghĩa là luôn luôn nhớ rằng mọi sự mọi việc trên thế gian đều không nhứt định,
không cố định. Thí dụ những quan niệm chồng chúa vợ tôi, trọng nam khinh nữ,
chỉ đúng ở thời đại nào đó mà thôi, không có thực thể cố định, không đúng với
mọi thời gian, không đúng với mọi không gian.
"Tứ
chính cần" là bốn việc luôn luôn chuyên cần, chăm chỉ thực hành một cách chân
chính. Ðối với việc bất thiện đã sinh, phải trừ dứt hẳn, đối với việc bất thiện
chưa sinh, đừng cho sinh ra, đối với việc thiện chưa sinh, làm cho sinh ra, đối
với việc thiện đã sinh, làm cho tăng trưởng.
"Tứ
như ý túc" là bốn pháp thiền định, hay là bốn phương tiện đưa chúng ta đến chỗ như
ý muốn, thành tựu viên mãn. Ðó là: dục, cần, tâm, quán. Nghĩa là: chúng ta phải
có lòng thiết tha mong muốn, tìm cầu sự giải thoát, chúng ta phải chuyên cần,
tinh tấn học hiểu giáo lý, chúng ta phải khắc chế tâm niệm đến chỗ bất loạn,
chúng ta phải biết cách quán chiếu để giác ngộ chân lý, thấu hiểu lẽ thực.
"Ngũ
căn" là năm pháp căn bản sinh ra các việc thiện. Ðó là: tín, tấn, niệm,
định, tuệ. Nghĩa là: chúng ta phải có niềm tin sâu xa, vững chắc nơi Chánh Pháp
vô thượng, tinh tấn tu tâm dưỡng tánh không hề biết mệt mỏi, luôn luôn có tâm
niệm hiền thiện, từ bi hỷ xả, luôn luôn giữ sự bình thản, tỉnh thức, thiền
định, bất loạn và luôn luôn dùng trí tuệ để suy xét mọi sự mọi việc, không tin
tưởng bừa bãi, không mê tín dị đoan.
"Ngũ
lực" là năm sức mạnh do năm pháp căn bản nói trên thành tựu được. Nghĩa là do
tín lực chúng ta có niềm tin kiên cố, mạnh mẽ nơi Chánh Pháp, do tấn lực chúng
ta có sức mạnh tinh thần bất thối chuyển, san bằng những trở ngại trên đường tu
tập, do niệm lực chúng ta luôn luôn ghi nhớ những thiện pháp, do định lực chúng
ta có được sự tập trung tư tưởng, và do tuệ lực chúng ta giác ngộ được con
đường giải thoát khỏi sanh tử luân hồi.
"Thất
bồ đề phần", còn gọi là "thất giác chi", là bảy phần hiểu biết,
bảy điều dẫn đến chỗ giác ngộ. Ðó là: trạch pháp, tinh tấn, hoan hỷ, khinh an,
niệm, định, xã. Trạch pháp là dùng trí tuệ chọn lựa sự thực hư, chơn giả của
tất cả các pháp. Tinh tấn là tâm mạnh mẽ dứt trừ tất cả các nghiệp bất thiện,
thực hành tất cả các nghiệp thiện. Hoan hỷ là tâm luôn luôn vui vẻ với mọi
người, với mọi việc trên thế gian, không phân biệt gì cả, để tất cả chúng sanh
đều hỷ kiến. Khinh an là tâm nhẹ nhàng, an lạc khi dứt trừ các phiền não, các
cố chấp nặng nề, thoát ra ngoài vòng tục lụy của thế gian. Niệm là tâm luôn
luôn nhớ nghĩ đến chư Phật, đến tất cả chúng sanh, vì tâm từ bi hỷ xả mà hành
trì giới luật, làm các việc phước thiện. Ðịnh là tâm luôn luôn bình thản, không
tán loạn, an nhiên, tự tại. Xã là tâm buông bỏ tất cả những hệ lụy của cuộc
đời, tất cả những thành kiến, định kiến, thiên kiến, biên kiến, tà kiến, ác
kiến, thường kiến, đoạn kiến, không chấp chặt những tư tưởng chật hẹp, ích kỷ.
"Bát
chánh đạo" là con đường gồm tám điều chân chánh, dẫn đến mục đích cứu kính của đạo
Phật: giác ngộ và giải thoát. Ðó là: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh
nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.
* * *
1) Chánh kiến là sự hiểu biết chân
chánh, chẳng hạn như hiểu biết về lý nhân quả, lý nhân duyên, lý duyên khởi, trùng
trùng duyên khởi. Sự hiểu biết này không bị chi phối bởi thành kiến, định kiến,
tà kiến, ác kiến, thiên kiến, biên kiến, đoạn kiến, thường kiến. Người có chánh
kiến là người thấy mọi sự mọi việc "đúng như thực".
Trong Kinh A Hàm, Ðức Phật có dạy:
Hãy
đến với đạo Phật để thấy đúng như thực,
chứ
không phải chỉ đến để mà tin.
Thấy "đúng như thực" nghĩa là sao? Nghĩa là:
* Mọi sự việc đều có nguyên nhân. Thí dụ khi thấy một cái cây mọc lên,
chúng ta biết ngay là do hạt nhân nẩy mầm, không phải tự nhiên mà có. Khi được
bình an, sung sướng, chúng ta hiểu là đang hưởng phước. Khi gặp tai nạn, trắc
trở, chúng ta hiểu là đang đền trả quả báo. Tất cả việc phước hay họa là quả
của nhân, do chúng ta gieo trước đây, đời trước hay đời này, chứ không do ông trời
nào ban phước giáng họa bừa bải cả. Ðó là lý nhân quả.
* Mọi sự việc do nhân duyên sinh và cũng do nhân duyên diệt. Một cuốn
sách do các nhân duyên có người viết, có giấy mực, có thợ in ấn, có thợ đóng
bìa mà hình thành. Ðến khi do các nhân duyên bị mối mọt ăn, bị lửa đốt, bị thấm
nước, cuốn sách đó sẽ bị hủy hoại. Cuốn sách không phải tự nhiên mà có, không
phải tự nhiên mà mất! Ðó là lý nhân duyên.
* Mọi sự mọi việc không phải tự nhiên mà phát khởi. Có người hỏi thì mới
có người đáp. Có người ăn quà mới có người bán quà. Có người bán quà mới có
người ăn quà. Có chửi mắng người mới bị ăn bạt tai. Có chơi xấu người mới bị
người chơi xấu. Có gió mới có sóng. Có sinh sự thì sự mới sinh. Có chuyện này
xảy ra, mới có chuyện kia xảy ra, rồi có chuyện nọ xảy ra tiếp theo, cứ như thế
liên tục không bao giờ dứt. Ðó là lý duyên khởi, trùng trùng duyên khởi.
2)
Chánh
tư duy là sự suy nghĩ chân chánh, theo đúng lẽ thực, không lợi mình hại người.
Sự suy nghĩ này không bị chi phối bởi thành kiến, định kiến, thiên kiến, biên
kiến, tà kiến, ác kiến, đoạn kiến, thường kiến.
Trong Kinh A Hàm, Ðức Phật có dạy:
"Không nên tin ngay tất cả những gì người xưa nói, tất cả những gì
người có thế lực đạo cũng như đời nói, tất cả những gì người bề trên nói, tất
cả những gì có nhiều người tin theo, có ghi trong sách vở.
Chỉ nên tin những gì có thể kiểm nghiệm được, đúng với chân lý, đúng với
lẽ thực, thông qua trí tuệ sáng suốt, thấy có ích lợi cho bản thân và cho mọi
người".
Bởi vậy, Ðức Phật dạy ba môn học phát sinh trí tuệ, đó là: "Văn-Tư-Tu".
Nghĩa là chúng ta hãy nghe giảng, hãy đọc sách, hãy nghiên tầm, hãy học hỏi,
rồi suy nghĩ, tư duy, quán chiếu cho chính chắn, thấu đáo, trước khi thực hành,
tu tập theo.
3)
Chánh
ngữ là lời nói chân chánh, không lợi mình hại người, không thêu dệt, gây
hiềm khích giữa các cá nhân hay tập thể, không xu nịnh, không trái lẽ thực,
không thiên vị. Lời nói này dễ nghe, đem lại niềm vui cho kẻ khác, không bị chi
phối bởi ác kiến, thành kiến, biên kiến, đoạn kiến, thường kiến. Người có chánh
ngữ là người không nói những lời khiến kẻ khác đau khổ, phải xức dầu cù là,
phải uống thuốc nhức đầu, dù cho họ là người thân hay kẻ thù hoặc bất cứ ai
chăng nữa! Người có chánh ngữ là người biết giữ chữ tín, được lòng tin yêu của
mọi người. Khi cần nói, chỉ nói pháp vô sanh, không nói pháp sanh diệt, thị
phi.
4) Chánh nghiệp là hành động tạo
nghiệp chân chánh, không mưu cầu lợi mình hại người. Dù cho người có hành động
không tốt đối với mình, chúng ta cũng không có hành động trả đủa, vì làm như
vậy chúng ta đâu có khác gì hơn người. Người ta viết báo chửi bới, vu cáo, bôi
lọ, nhục mạ, phỉ báng. Chúng ta biết đó là hành động không chân chánh, thì
chúng ta đừng làm y như vậy đối với người.
Trong
Kinh A Hàm, Ðức Phật có dạy:
Tam
nghiệp hằng thanh tịnh. Ðồng Phật vãng tây phương.
Nghĩa là giữ gìn ba nghiệp thân khẩu ý chân chánh, thanh tịnh, thì chúng
ta theo chư Phật về cảnh giới tây phương cực lạc mà an hưởng.
5)
Chánh
mạng là mạng sống, cuộc sống chân chánh. Nghĩa là chúng ta chỉ làm những
nghề chân chánh, không xâm phạm mạng người, tổn hại mạng vật để sinh sống.
Người có chánh mạng là người sống cuộc đời có ý nghĩa, lợi mình lợi người,
không lường gạt ai, không ăn không ngồi rồi, không sống bám vào kẻ khác, không
sống bám vào xã hội, luôn luôn có tâm niệm phục vụ chúng sanh là cúng dường chư
Phật.
6)
Chánh
tinh tấn là sự siêng năng, chuyên cần, chăm chỉ chân chánh, tức là làm tất cả
những việc thiện và tránh tất cả việc bất thiện, luôn luôn tu tâm dưỡng
tánh,
không lúc nào ngơi nghỉ, mệt mõi, buông lung hay thối tâm.
không lúc nào ngơi nghỉ, mệt mõi, buông lung hay thối tâm.
Trong Kinh Ðại Bát Niết Bàn, Ðức Phật có dạy:
Chư ác mạc tác.
Chúng thiện phụng hành.
Tự tịnh kỳ ý.
Thị chư Phật giáo.
Trong kinh sách, tượng trưng cho sự siêng năng, tinh tấn một cách dũng
mãnh, vượt ngoài ý chí tầm thường của thế gian, đó là Bồ Tát Ðại Thế Chí.
7) Chánh niệm là luôn luôn khắc
chế tâm niệm bên trong, bên ngoài luôn luôn tránh sự đấu tranh, cãi vã.
Chư Tổ có dạy:
Nội
cần khắc niệm chi công.
Ngoại
hoằng bất tranh chi đức.
Nghĩa là con người có công phu tu tập, cố gắng dẹp bỏ tạp niệm trong
tâm, con người có đức độ bên ngoài luôn luôn từ tốn, lễ độ, nhã nhặn, hiền hòa.
Người có chánh niệm là người luôn luôn biết rõ ràng mình đang làm gì, đang nói
gì, đang nghĩ gì, luôn luôn sống trong tỉnh thức, nhận biết ngay mỗi khi vọng
niệm dấy khởi và không theo, luôn luôn nhớ và sống theo lời Phật dạy, luôn luôn sống
với Chân Tâm Phật Tánh, với Bản Tâm Thanh Tịnh.
8) Chánh định là sự bình tỉnh sáng
suốt, do tam nghiệp thanh tịnh, do quán tâm từ bi để dẹp trừ lòng sân hận, mở
rộng tình thương, do quán thân bất tịnh để dẹp trừ lòng tham ái, do quán lý
nhân duyên để dẹp trừ lòng si mê, ngã chấp và pháp chấp, do quán giới phân biệt
để khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần, không khởi sáu thức, không sanh vọng niệm
và do quán sổ tức, đếm hơi thở ra thở vào, để dẹp trừ tâm loạn động, tâm lăng
xăng lộn xộn.
Người có chánh định do giữ gìn giới luật, sẽ phát sanh trí tuệ bát nhã,
đưa đến giác ngộ và giải thoát. Ðó là tam vô lậu học "Giới-Ðịnh-Tuệ".
Ngoài ra, chúng ta cũng đã biết dù khởi niệm thiện hay bất thiện cũng đều dẫn
đến khổ đau, bởi vì vẫn còn kẹt hai bên, tức là nhị biên, người đời gọi là hai
thái cực. Cho nên, Ðức Phật dạy "Pháp Môn Bất Nhị", giúp chúng ta
lặng hết những tâm niệm dù thiện hay bất thiện, để không còn phiền não và khổ
đau, để được an lạc và hạnh phúc, để được về cõi tây phương cực lạc, để được
giác ngộ và giải thoát.
* * *
Tóm lại, chúng ta biết những điều Ðức Phật chứng ngộ và giảng dạy, được gọi là
Chánh Pháp ghi trong các kinh điển, ví như các bản đồ giúp nhân loại biết
phương pháp tu tập, để được giác ngộ và giải thoát, để được cuộc sống an lạc và
hạnh phúc hiện đời. Chánh Pháp không dành riêng cho bất cứ ai, dù là Phật Tử
hay không, dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia. Mặc dù có người thờ phượng
Ðức Phật, tin tưởng Ðức Phật mà không học hiểu
Chánh Pháp, không áp dụng Chánh Pháp, thì cũng không ích lợi gì hiện đời cả.
Chánh Pháp, không áp dụng Chánh Pháp, thì cũng không ích lợi gì hiện đời cả.
Chư Tổ có
dạy:
Tu
mà không học là tu mù.
Học
mà không tu là đãy sách.
Nghĩa là muốn hưởng an lạc và hạnh phúc, muốn được giác ngộ và giải
thoát, chúng ta phải tu tập. Nhưng tu tập mà không chịu học hiểu Chánh Pháp
cũng ví như người mù lại không có bản đồ, không người hướng dẫn, thì làm sao đi
đến nơi đến chốn một cách an lành được. Bản thân đã tu mù, không nghiên tầm
giáo lý, kinh điển đại thừa, mà còn dẫn dắt người khác tu tập, thì quả là đại
họa, là phỉ báng đạo Phật, là sư tử trùng thực sư tử nhục. Trái lại, Chánh Pháp
để áp dụng, thực hành chứ không phải để nói suông, để thảo luận, để tranh cãi.
Người chỉ lo học hiểu để thỏa mãn kiến thức, mà không lo tu tập, không áp dụng
vào đời sống hằng ngày, thì cũng chỉ có thể hiểu biết đến mức độ nào đó mà
thôi, cũng ví như cái đãy, cái túi đựng sách có giới hạn vậy thôi. Những người
đó cũng như những người đếm tiền trong ngân hàng, những người đếm bò cho chủ,
trọn không có tiền và cũng không có bò.
Có
câu chuyện giáo lý tối thượng thừa như sau: Có một anh mù, đến thăm người bạn, đến
lúc trời tối mới ra về. Người bạn đưa cho cây đèn. Anh mù bèn nói không cần,
bởi vì đối với anh, trời sáng cũng như tối, ban ngày cũng như ban đêm, không có
gì khác, không phân biệt được gì cả. Người bạn khuyên hãy cầm cây đèn, để người
khác thấy mà tránh. Anh mù nghe có lý bèn nhận cây đèn và ra về. Trên đường về,
có người đi đụng phải anh. Anh mù bèn la lên: bộ không thấy cây đèn tôi đang
cầm đây hay sao? Người kia đáp: Cây đèn của anh đã tắt từ lâu rồi!
Thế mới biết chúng ta cần cây đèn của chính chúng ta, để giúp chúng ta
tai qua nạn khỏi, để giúp chúng ta giác ngộ và giải thoát khỏi vòng trầm luân,
sanh tử luân hồi. Cây đèn do người khác trao cho, có khi không được hữu dụng.
Cây đèn luôn luôn hữu dụng đó phải là cây đèn của chính chúng ta. Cây đèn đó
chính là trí tuệ bát nhã của tất cả mọi người chúng ta vậy./.
5 Điểm Quan Trọng của Đạo Phật
(Trích Tập san Phật Học Tịnh Quang Số 22
- Trang 26)
Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ
Phật-Học Tịnh-Quang Canada
Ðức Phật Thích
Ca đản sanh tại vườn Lâm Tỳ Ni thuộc xứ Ca Tỳ La Vệ, được gọi là Thái tử Tất
Ðạt Ða (hay Sĩ Ðạt Tha), con của đức vua Tịnh Phạn và Hoàng hậu Ma Gia.
Ngài lớn lên
trong hoàng cung, vâng lệnh song thân lập gia đình với Công chúa Gia Du Ðà La,
và hạ sanh Thái tử La Hầu La. Trong các chuyến xuất cung du ngoạn ngoại
thành, Ngài chứng kiến các cảnh: sanh, lão, bệnh, tử trong nhân
gian. Từ đó, Ngài luôn luôn trầm tư mặc tưởng, muốn tìm phương tự độ và
cứu giúp chúng sanh thoát khỏi cảnh trầm luân sanh tử, cho nên Ngài lìa bỏ
hoàng cung, lên đường tìm đạo giải thoát. Sau 6 năm tu khổ hạnh ở chốn
rừng già, và 49 ngày đêm ngồi thiền định dưới cội cây bồ đề, tâm trí thanh
tịnh, Ngài hoát nhiên giác ngộ, thành Phật, thành bậc vô thượng chánh đẳng
chánh giác, vào năm Ngài được 35 tuổi. Sau đó, Ngài đi khắp nơi thuyết
pháp, đem chân lý giác ngộ giải thoát giảng dạy cho mọi người trong 45 năm ròng
rã, và Ngài thị tịch, nhập niết bàn, năm 80 tuổi tại khu rừng ta la song thọ.
Toàn bộ lịch sử
của Ðức Phật Thích Ca từ ngày đản sanh, đến thành đạo và nhập niết bàn, cũng
như toàn bộ giáo lý của Phật giáo, không phân biệt tông phái, nêu lên những điểm quan trọng như sau:
1) Mọi người
trên thế gian đều có thể trở thành một vị Phật, một bậc sáng suốt giác ngộ,
không phân biệt dân tộc, nam nữ, xuất xứ, đẳng cấp, trẻ già, thời đại, đã có
gia đình hay chưa, nếu người đó biết phát tâm tìm hiểu và tu tập theo đúng
Chánh pháp, theo đúng bản đồ tu học. Do đó, có hằng hà sa số các vị Phật,
từ quá khứ, đến hiện tại và vị lai, chứ không phải chỉ có một vị Phật duy nhất
làm giáo chủ là Ðức Phật Thích Ca, còn tất cả các loài chúng sanh khác đều phải
thờ lạy theo tinh thần van xin, cầu khẩn một cách tiêu cực.
Đây chính là điểm nổi bậc của giáo lý đạo Phật vậy.
2) Ðức Phật
không phải là vị thần linh hay thượng đế tưởng tượng chuyên ban phước ra ơn hay
giáng họa trừng phạt. Cho nên những ai cúng kiến, tin tưởng, thờ lạy Ðức
Phật theo tinh thần van xin, cầu khẩn một cách tiêu cực, dù ở chùa hay ở nhà,
đều không đạt được những ước muốn như ý. Bởi vậy, cúng kiến nhiều thì
buồn phiền nhiều, tin tưởng nhiều thì thất vọng nhiều, xin xỏ nhiều đau khổ
nhiều. Trái lại, những người sống đúng theo tinh thần những lời dạy của
Ðức Phật, dù tại gia hay xuất gia, dù có thờ lạy Ðức Phật hay không, cũng đều được
an lạc và hạnh phúc hiện thời, giác ngộ và giải thoát mai sau.
Đây chính là điểm chí công vô tư của giáo lý đạo Phật vậy.
3) Từ trước
thời Ðức Phật xuất hiện trên thế gian này, cuộc đời vẫn thường đầy dẫy những sự
đau khổ, bất trắc, đấu tranh, lừa đảo, chứ không phải chỉ có thời hiện tại mà
thôi. Do đó, giáo lý của đạo Phật thường được ví như chiếc thuyền, gọi là
thuyền bát nhã, tức là thuyền từ bi & trí tuệ, giúp đỡ con
người vượt qua bể khổ, sông mê, lướt qua bát phong của cuộc đời, đến bến bờ giác
ngộ và giải thoát. Ðức Phật vẫn sống ngay trên thế gian này, vẫn gặp bao
nhiêu khổ nạn của cuộc đời, nhưng tâm trí của Ngài vẫn an nhiên tự tại, không
cần phải đợi đến lúc về tây phương cực lạc hay thăng lên thiên đàng!
Ðây chính là cốt tủy của giáo lý đạo Phật vậy.
4) Ðạo Phật là
một tôn giáo, cho nên cũng có những hình thức cúng kiến, lễ lạy, cầu nguyện,
cốt để giúp đỡ những người đang đau khổ trên thế gian này tìm đến với đạo,
trong những bước ban đầu. Nếu như con người, dù tại gia hay xuất gia, đến
với đạo Phật nhưng chỉ biết những hình thức cúng kiến, lễ lạy, cầu nguyện mà
thôi, cứ đứng ở đó bao nhiêu năm trời, cho rằng như vậy là đủ rồi, không chịu
bước thêm bước nữa, thì đau khổ vẫn hoàn khổ đau, có khác chi bao nhiêu người
khác đâu? Bước đó chính là: phát tâm học hỏi, tìm hiểu Chánh pháp, xem Ðức Phật
dạy những gì, để có thể áp dụng trong cuộc sống thực tế hằng ngày, đạt an lạc
và hạnh phúc, thêm nữa đạt được: giác ngộ và giải thoát.
Ðây chính là chánh kiến và chánh tín của giáo lý đạo Phật vậy.
5) Các buổi lễ
của Phật giáo, quan trọng nhứt là Lễ Phật Ðản, đều nhằm mục đích dẫn dắt con
người đến với đạo, xoa dịu bớt những nỗi khổ đau của cuộc đời. Và mục
đích quan trọng hơn hết là: Hãy bước vào cửa đạo, chứ không phải chỉ bước vào cửa chùa rồi thôi, hay vẫn cứ đi lang thang, lòng vòng bên ngoài, bằng lòng với
các hình thức cúng kiến, lễ lạy, các buổi văn nghệ xổ số, các cuộc hành hương
thương mại, các cuộc vận động in sách cầu vãng sanh lưu xá lợi, kêu gọi đóng
góp tạo chùa to tượng lớn, mà không quan tâm việc tu học, không lo việc tu tâm
dưỡng tánh, không biết đến Chánh pháp là gì?
Bước vào cửa
đạo nghĩa là: phải biết tu học theo lời Ðức Phật dạy
trong các kinh sách, để đạt giác ngộ và giải thoát, chứ không phải là: không
chịu học hỏi, chỉ biết tu mù, bảo sao làm vậy, nói sao nghe vậy, người trước
làm sao, người sau y vậy, chẳng hiểu ý nghĩa, nhiều điều hết sức, mê tín dị
đoan!
Ðây chính là mục đích cứu cánh của giáo lý đạo Phật vậy. []
Tỳ-Khưu
Thích-Chân-Tuệ
Ban Biên-Tập
Phật-Học Tịnh-Quang Canada
37 PHẨM TRỢ ĐẠO
Tỳ Khưu Thích Chân Tuệ
Chánh Pháp gồm 37 phẩm này giúp chúng ta đạt được "đạo" bằng trí tuệ, bằng sự quán chiếu,
nhận thức được chân lý chứ không phải chỉ bằng niềm tin đơn giản mà thôi
Toàn bộ giáo pháp của đạo
Phật, chia ra 37 phẩm, gồm có:
Tứ niệm xứ (4)
Tứ như ý túc, (4)
Tứ chính cần, (4)
Ngũ
căn,
(5)
Ngũ
lực,
(5)
Thất bồ đề phần (7)
và Bát chánh đạo. (8)
* "Tứ Niệm Xứ"
Là bốn chỗ cần quán niệm luôn luôn.
Quán thân bất tịnh, nghĩa là luôn luôn
nhớ rằng thân xác tứ đại này chứa toàn những thứ nhơ nhớp, những thứ bất tịnh
bên trong.
Quán thọ thị khổ, nghĩa là luôn luôn
nhớ rằng thọ nhận nhiều cảm giác, nhiều tự ái, ai nói gì cũng chấp chặt, thì
tức nhiên là khổ.
Quán tâm vô thường, nghĩa là luôn
luôn nhớ rằng tâm ý con người đổi thay vô chừng, không cố định, nay vầy mai khác,
chớ có chấp chặt làm chi cho khổ!
Quán pháp vô ngã, nghĩa là luôn luôn nhớ rằng mọi sự
mọi việc trên thế gian đều không nhứt định, không cố định. Thí dụ những quan
niệm chồng chúa vợ tôi, trọng nam khinh nữ, chỉ đúng ở thời đại nào đó mà thôi,
không có thực thể cố định, không đúng với mọi thời gian, không đúng với mọi
không gian.
* "Tứ chính cần"
Là bốn việc luôn luôn chuyên cần,
chăm chỉ thực hành một cách chân chính. Đối với việc bất thiện đã sinh, phải
trừ dứt hẳn, đối với việc bất thiện chưa sinh, đừng cho sinh ra, đối với việc
thiện chưa sinh, làm cho sinh ra, đối với việc thiện đã sinh, làm cho tăng
trưởng.
* "Tứ như ý túc"
Là bốn pháp thiền định, hay là bốn phương tiện đưa
chúng ta đến chỗ như ý muốn, thành tựu viên mãn. Đó là: dục, cần, tâm, quán. Nghĩa là: chúng ta phải có lòng thiết tha
mong muốn, tìm cầu sự giải thoát, chúng ta phải chuyên cần, tinh tấn học hiểu
giáo lý, chúng ta phải khắc chế tâm niệm đến chỗ bất loạn, chúng ta phải biết
cách quán chiếu để giác ngộ chân lý, thấu hiểu lẽ thực.
* "Ngũ căn"
Là năm pháp căn bản sinh ra các việc thiện. Đó là: tín, tấn, niệm, định,
tuệ. Nghĩa là: chúng ta phải có niềm tin sâu xa, vững chắc nơi Chánh Pháp vô thượng, tinh tấn tu tâm
dưỡng tánh không hề biết mệt mỏi, luôn luôn có tâm niệm hiền thiện, từ bi hỷ
xả, luôn luôn giữ sự bình thản, tỉnh thức, thiền định, bất loạn và luôn luôn
dùng trí tuệ để suy xét mọi sự mọi việc, không tin tưởng bừa bãi, không mê tín
dị đoan.
* "Ngũ lực"
Là năm sức mạnh do năm pháp căn bản nói trên thành tựu được. Nghĩa là do tín lực chúng ta có niềm tin kiên cố,
mạnh mẽ nơi Chánh Pháp, do tấn lực chúng ta có sức mạnh tinh thần bất thối
chuyển, san bằng những trở ngại trên đường tu tập, do niệm lực chúng ta luôn
luôn ghi nhớ những thiện pháp, do định lực chúng ta có được sự tập trung tư
tưởng, và do tuệ lực chúng ta giác ngộ được con đường giải thoát khỏi sanh tử
luân hồi.
* "Thất bồ đề phần"
Còn gọi là "thất giác
chi", là bảy phần hiểu biết, bảy điều dẫn đến chỗ giác ngộ.
Đó là: trạch pháp, tinh tấn, hoan hỷ, khinh an, niệm, định, xã.
*Trạch pháp là dùng trí tuệ chọn lựa sự thực hư, chơn giả của tất cả các pháp.
Tinh tấn là tâm mạnh mẽ dứt trừ tất cả các
nghiệp bất thiện, thực hành tất cả các nghiệp thiện.
*Hoan hỷ là tâm luôn luôn vui vẻ với mọi
người, với mọi việc trên thế gian, không phân biệt gì cả, để tất cả chúng sanh
đều hỷ kiến.
*Khinh an là tâm nhẹ nhàng, an lạc khi dứt trừ
các phiền não, các cố chấp nặng nề, thoát ra ngoài vòng tục lụy của thế gian.
*Niệm là tâm luôn luôn nhớ nghĩ đến chư Phật, đến tất cả chúng sanh, vì tâm
từ bi hỷ xả mà hành trì giới luật, làm các việc phước thiện.
*Định là tâm luôn luôn bình thản, không tán loạn, an nhiên, tự tại.
*Xã là tâm buông bỏ tất cả những hệ lụy
của cuộc đời, tất cả những thành kiến, định kiến, thiên kiến, biên kiến, tà
kiến, ác kiến, thường kiến, đoạn kiến, không chấp chặt những tư tưởng chật hẹp,
ích kỷ.
* "Bát chánh đạo"
Là con đường gồm tám điều chân chánh, dẫn đến mục đích cứu kính của đạo
Phật: giác ngộ và giải thoát. Đó là: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh
nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.
1) Chánh kiến
Là sự hiểu biết chân chánh, chẳng hạn như hiểu biết về lý nhân quả, lý
nhân duyên, lý duyên khởi, trùng trùng duyên khởi. Sự hiểu biết này không bị
chi phối bởi thành kiến, định kiến, tà kiến, ác kiến, thiên kiến, biên kiến,
đoạn kiến, thường kiến. Người có chánh kiến là người thấy mọi sự mọi việc "đúng như
thực".
Trong Kinh A Hàm, Đức Phật có dạy:
"Hãy đến với đạo Phật để thấy đúng như thực,
chứ không phải chỉ đến để mà tin!"
Thấy
"đúng như thực" nghĩa
là sao?
Nghĩa
là:
* Mọi sự việc đều có nguyên nhân.
Thí dụ khi thấy một cái cây mọc lên,
chúng ta biết ngay là do hạt nhân nẩy mầm, không phải tự nhiên mà có. Khi được bình an, sung
sướng, chúng ta hiểu là đang hưởng phước. Khi gặp tai nạn, trắc trở, chúng ta
hiểu là đang đền trả quả báo. Tất cả việc phước hay họa là quả của nhân, do
chúng ta gieo trước đây, đời trước hay đời này, chứ không do ông trời nào ban
phước giáng họa bừa bải cả. Đó là lý nhân quả.
* Mọi sự việc do nhân duyên sinh và cũng do nhân duyên diệt. Một cuốn sách do các nhân duyên có người viết, có giấy mực, có thợ in ấn, có thợ đóng bìa mà hình thành. Đến khi do các nhân duyên bị mối mọt ăn, bị lửa đốt, bị thấm nước, cuốn sách đó sẽ bị hủy hoại. Cuốn sách không phải tự nhiên mà có, không phải tự nhiên mà mất! Đó là lý nhân duyên.
* Mọi sự mọi việc không phải tự nhiên mà phát khởi. Có người hỏi thì mới có người đáp. Có người ăn quà mới có người bán quà. Có người bán quà mới có người ăn quà. Có chửi mắng người mới bị ăn bạt tai. Có chơi xấu người mới bị người chơi xấu. Có gió mới có sóng. Có sinh sự thì sự mới sinh. Có chuyện này xảy ra, mới có chuyện kia xảy ra, rồi có chuyện nọ xảy ra tiếp theo, cứ như thế liên tục không bao giờ dứt. Đó là lý duyên khởi, trùng trùng duyên khởi.
2) Chánh tư duy
Là sự suy nghĩ chân chánh, theo đúng lẽ thực, không lợi mình hại người.
Sự suy nghĩ này không bị chi phối bởi thành kiến, định kiến, thiên kiến, biên
kiến, tà kiến, ác kiến, đoạn kiến, thường kiến.
Trong
Kinh A Hàm, Đức Phật có dạy:
"Không nên tin ngay tất cả những gì người xưa nói, tất cả những gì
người có thế lực đạo cũng như đời nói, tất cả những gì người bề trên nói, tất
cả những gì có nhiều người tin theo, có ghi trong sách vở.
Chỉ nên tin những gì có thể kiểm nghiệm được, đúng với chân lý, đúng với
lẽ thực, thông qua trí tuệ sáng suốt, thấy có ích lợi cho bản thân và cho mọi
người".
Bởi vậy, Đức Phật dạy ba môn học phát sinh trí tuệ, đó là:
"Văn-Tư-Tu". Nghĩa là chúng ta hãy nghe giảng, hãy đọc sách, hãy
nghiên tầm, hãy học hỏi, rồi suy nghĩ, tư duy, quán chiếu cho chính chắn, thấu
đáo, trước khi thực hành, tu tập theo.
3) Chánh ngữ
Là lời nói chân chánh, không lợi mình hại người, không thêu dệt, gây
hiềm khích giữa các cá nhân hay tập thể, không xu nịnh, không trái lẽ thực,
không thiên vị. Lời nói này dễ nghe, đem lại niềm vui cho kẻ khác, không bị chi
phối bởi ác kiến, thành kiến, biên kiến, đoạn kiến, thường kiến. Người có chánh
ngữ là người không nói những lời khiến kẻ khác đau khổ, phải xức dầu cù là,
phải uống thuốc nhức đầu, dù cho họ là người thân hay kẻ thù hoặc bất cứ ai
chăng nữa! Người có chánh ngữ là người biết giữ chữ tín, được lòng tin yêu của
mọi người. Khi cần nói, chỉ nói pháp vô sanh, không nói pháp sanh diệt, thị
phi.
4) Chánh nghiệp
Là hành động tạo nghiệp chân chánh, không mưu cầu lợi mình hại người. Dù
cho người có hành động không tốt đối với mình, chúng ta cũng không có hành động
trả đủa, vì làm như vậy chúng ta đâu có khác gì hơn người. Người ta viết báo
chửi bới, vu cáo, bôi lọ, nhục mạ, phỉ báng. Chúng ta biết đó là hành động
không chân chánh, thì chúng ta đừng làm y như vậy đối với người.
Trong Kinh A Hàm, Đức Phật có dạy:
Tam
nghiệp hằng thanh tịnh. Đồng Phật vãng tây phương.
Nghĩa là giữ gìn ba nghiệp thân khẩu ý chân chánh, thanh tịnh, thì chúng
ta theo chư Phật về cảnh giới tây phương cực lạc mà an hưởng.
5) Chánh mạng
Là mạng sống, cuộc sống chân chánh. Nghĩa là chúng ta chỉ làm những nghề
chân chánh, không xâm phạm mạng người, tổn hại mạng vật để sinh sống. Người có
chánh mạng là người sống cuộc đời có ý nghĩa, lợi mình lợi người, không lường
gạt ai, không ăn không ngồi rồi, không sống bám vào kẻ khác, không sống bám vào
xã hội, luôn luôn có tâm niệm phục vụ chúng sanh là cúng dường chư Phật.
6) Chánh tinh tấn
Là sự siêng năng, chuyên cần, chăm chỉ chân chánh, tức là làm tất cả
những việc thiện và tránh tất cả việc bất thiện, luôn luôn tu tâm dưỡng tánh,
không lúc nào ngơi nghỉ, mệt mõi, buông lung hay thối tâm.
Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, Đức Phật có dạy:
Chư
ác mạc tác.
Chúng
thiện phụng hành.
Tự
tịnh kỳ ý.
Thị
chư Phật giáo.
Trong kinh sách, tượng trưng cho sự siêng năng, tinh tấn một cách dũng
mãnh, vượt ngoài ý chí tầm thường của thế gian, đó là Bồ Tát Đại Thế Chí.
7) Chánh niệm
Là luôn luôn khắc chế tâm niệm bên trong, bên ngoài luôn luôn tránh sự
đấu tranh, cãi vã. Chư Tổ có dạy:
Nội
cần khắc niệm chi công.
Ngoại
hoằng bất tranh chi đức.
Nghĩa là con người có công phu tu tập, cố gắng dẹp bỏ tạp niệm trong
tâm, con người có đức độ bên ngoài luôn luôn từ tốn, lễ độ, nhã nhặn, hiền hòa.
Người có chánh niệm là người luôn luôn biết rõ ràng mình đang làm gì, đang nói
gì, đang nghĩ gì, luôn luôn sống trong tỉnh thức, nhận biết ngay mỗi khi vọng
niệm dấy khởi và không theo, luôn luôn nhớ và sống theo lời Phật dạy, luôn luôn
sống với Chân Tâm Phật Tánh, tức là với Bản Tâm Thanh Tịnh.
8) Chánh định
Là sự bình tỉnh sáng suốt, do tam nghiệp thanh tịnh, do quán tâm từ bi
để dẹp trừ lòng sân hận, mở rộng tình thương, do quán thân bất tịnh để dẹp trừ
lòng tham ái, do quán lý nhân duyên để dẹp trừ lòng si mê, ngã chấp và pháp
chấp, do quán giới phân biệt để khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần, không khởi
sáu thức, không sanh vọng niệm và do quán sổ tức, đếm hơi thở ra thở vào, để
dẹp trừ tâm loạn động, tâm lăng xăng lộn xộn.
Người có chánh định do giữ gìn giới luật, sẽ phát sanh trí tuệ bát nhã,
đưa đến giác ngộ và giải thoát. Đó là tam vô lậu học
"Giới-Định-Tuệ". Ngoài ra, chúng ta cũng đã biết dù khởi niệm thiện hay bất thiện cũng
đều dẫn đến khổ đau, bởi vì vẫn còn kẹt hai bên, tức là nhị biên, người đời gọi
là hai thái cực.
Cho nên, Đức Phật dạy "Pháp Môn Bất Nhị", giúp chúng ta lặng
hết những tâm niệm dù thiện hay bất thiện, để không còn phiền não và khổ đau,
để được an lạc và hạnh phúc, để được về cõi tây phương cực lạc, để được giác
ngộ và giải thoát.
* * *
Tóm lại, chúng ta biết những điều Đức Phật
chứng ngộ và giảng dạy, được gọi là Chánh Pháp ghi trong các kinh điển, ví như
các bản đồ giúp nhân loại biết phương pháp tu tập, để được giác ngộ và giải
thoát, để được cuộc sống an lạc và hạnh phúc hiện đời. Chánh Pháp không dành
riêng cho bất cứ ai, dù là Phật Tử hay không, dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ
tại gia. Mặc dù có người thờ phượng Đức Phật, tin tưởng Đức Phật mà không học
hiểu Chánh Pháp, không áp dụng Chánh Pháp, thì cũng không ích lợi gì hiện đời
cả.
Chư Tổ có dạy: "Tu mà không học là tu mù. Học mà không tu là đãy sách".
Nghĩa là muốn hưởng an lạc và hạnh phúc, muốn được giác ngộ và giải
thoát, chúng ta phải tu tập. Nhưng tu tập mà không chịu học hiểu Chánh Pháp
cũng ví như người mù lại không có bản đồ, không người hướng dẫn, thì làm sao đi
đến nơi đến chốn một cách an lành được. Bản thân đã tu mù, không nghiên tầm
giáo lý, kinh điển đại thừa, mà còn dẫn dắt người khác tu tập, thì quả là đại
họa, là phỉ báng đạo Phật, là sư tử trùng thực sư tử nhục.
Trái lại, Chánh Pháp để áp dụng, thực hành chứ không phải để nói suông,
để thảo luận, để tranh cãi. Người chỉ lo học hiểu để thỏa mãn kiến thức, mà
không lo tu tập, không áp dụng vào đời sống hằng ngày, thì cũng chỉ có thể hiểu
biết đến mức độ nào đó mà thôi, cũng ví như cái đãy, cái túi đựng sách có giới
hạn vậy thôi. Những người đó cũng như những người đếm tiền trong ngân hàng,
những người đếm bò cho chủ, trọn không có tiền và cũng không có bò.